Kính thưa qúy NT, anh chị em đồng môn cùng thân hữu. Hôm nay là ngày mồng bốn tết Tân Sửu, hương vị những ngày đầu năm vẫn còn phảng phất quanh gia đình và người t̀hân. Riêng tôi, khi tết Tân Sửu về lại nhắc tôi về một thời bị làm trâu đi cày trong trại tù cải tạo Nam Hà
Ngày 19 tháng 6 năm 1976 tôi được chuyển từ trại tù An Dưỡng, Biên Hòa ra Bắc dưới hầm tàu địa ngục mang tên Hương Giang. Vừa đặt chân dưới hầm tàu tôi gặp Phạm Bá Lộc và Lê Việt Hằng, mừng lắm. Sống cả năm trời trong cùng một trại nhưng không hề gặp nhau vì khác khu trại giam. Suốt hai ngày hai đêm dưới hầm tàu tăm tối ngộp thở vì thiếu không khí và mùi xú uế của nước tiểu vá phân người. Từ cảng Hải Phòng người ta chuyển chúng tôi lên Yên Bái bằng một đoàn tàu lửa cổ lổ sĩ. Xuống tàu ba anh em chúng tôi bám nhau mà sắp hàng nên cùng được đưa vào trại 4 liên trại 1 ở xã Việt Hồng, Huyện Yên Bình tỉnh Hoàng Liên Sơn. Vùng đất nầy là nơi lưu đày những người dân Quỳnh Lưu chống nhà cầm quyền miền Bắc năm 1956. Sau đó chúng tôi bị chuyển qua trại 3 liên trạị 4 ở xã Cẩm Nhân bên bờ hồ Thác Bà. Sau mấy năm nếm mùi muỗi rừng và con vắc của miền thượng du Bắc Việt, ba anh em chúng tôi thuộc nhóm đầu tiên chuyển về trại Nam Hà và cùng ở chung trong đội 27 ở buồng số 15. chung với đội 28.
Về Nam Hà chúng tôi thóat khỏi nạn vắc cắn nhưng xuống đồng thì bị đỉa đeo. Cánh đồng cạnh trại tù Nam Hà A là vùng đất trũng có lẽ từ thuở tạo thiên lập địa không ai khai thác nên cỏ mục chồng chất lên nhau thành một lớp đất xập xình, vì thế mà người dân địa phương gọi là “Đầm Đùn“. Công An trại bắt tù đào đất đắp bờ phân ô làm đồng ruộng. Đến mùa cấy lúa, toàn trại đổ xô xuống đồng, đội thi bì bõm cuốc ruộng, đội thì dọn cỏ be bờ rồi cấy lúa. Vụ mùa thu đông năm 1978, đội của tôi đang cuốc ruộng thì tên trung úy Lự đặc trách nông nghiệp đến đứng trên bờ, hắn đếm từng đầu người rồi gọi đội trưởng lên bảo “đội của anh đủ nhân số để thành lập đội cày bừa cho trại”. Đội của tôi trở thành đội làm trâu đầu tiên cuả trại tù Nam Hà. Chúng tôi lạ lẫm với chiếc bừa lần đầu tiên được thấy. Một hàng răng bừa bằng sắt dài chừng 50 cm, ba sợi dây thừng gấp đôi cột vào thân bừa. Ba người quàng dây thừng qua vai làm trâu đi trước, một người đi đằng sau cầm cáng bừa. Ăn đói nên ai cũng trơ xương vai, bị dây thừng cọ xát làm trầy da rướm máu, tốì về đau nhức ngủ không được. Đó là chưa nói đến cái răng bừa bị vướng vào một rễ cây còn sót dưới ruộng, ba người kéo cày như bị giật ngược trở lại khiến kêu trời oai oái đau. Đó là hồi ức khó quên về thân phận làm trâu của tôi trong trại tù cải tạo
Dưới đây là bài thơ tôi viết sau khi Phạm Bá Lộc gọi chúc tết và nhắc tôi về quãng đời đen tối có liên quan đến con trâu với năm Tân Sửu nầy. Xin mời qúy NT và thân hữu đọc giải trí. (Hình minh họa
KỂ CHUYỆN TRÂU
Mùa xuân vừa ló dạng Chàng Sửu bước vào nhà Hiền lành mà dũng lực Đuổi con Tý đi xa
Năm trâu nhớ chuyện cũ Trong ngục tối lao tù Đời khổ sai biệt xứ Đường về xa mịt mù
Bao thân người xơ xác Dưới cơn nắng chang chang Cuốc đất làm ruộng rẫy Mồ hôi chảy từng hàng
Đến mùa đông lạnh giá Nước sâu ngập tới mông Áo quần không đủ ấm Run rẩy dưới ruộng đồng
Đọa đày vầy chưa đủ Thêm màn kịch trả thù Bắt làm trâu cày ruộng Tủi hận tới thiên thu
Sắn khoai chưa đầy chén Gầy rạc trơ xương vai Dây thừng,còng lưng kéo Cứa da máu chảy dài
Lòng người sao tàn độc Xỉ nhục kẻ sa cơ Biến người thành súc vật Thế giới chẳng ai ngờ
Bạn phải đăng nhập để bình luận.