
Tôi không có ý định nghiên cứu, phê bình gì ở đây. Chỉ một điều là sau khi đọc xong một số bài về Truyện Kiều (1), tôi cũng muốn nói lên vài cảm nghĩ của mình, vài cảm nghĩ riêng tư và vụn vặt.
1- NGUỒN GỐC ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH
Các cụ học giả bảo rằng “ Kim Vân Kiều truyện” của Tầu là một tiểu thuyết tầm thường thô lỗ, nhờ tài năng của Nguyễn Du mà Truyện Kiều trở nên một áng văn trác tuyệt. Đành là thế. Nhưng tôi vẫn ấm ức việc ấy, việc Nguyễn Du viết Đoạn Trường Tân Thanh dựa theo Kim Vân Kiều truyện của Tầu. Phải chi Cụ đừng phóng tác đừng vay mượn thì có phải hay hơn không, trọn vẹn hơn không?
Có lẽ để giải tỏa nỗi ấm ức ấy, có người bảo rằng Việt Nam là một giống dân xuất phát từ Trung Hoa, đã từ Trung Hoa mà ra thì không còn gọi là vay mượn nữa (2).
Tôi không tin. Vả lại, nếu Nguyễn Du là người Hoa thì vẫn cứ là vay mượn.
Tôi tin rằng dân Việt là một giống dân khác hẳn Tầu, bị Tầu đô hộ hàng ngàn năm dùng mọi thủ đoạn đồng hóa. Nhưng dân Việt vẫn là dân Việt, tiếng Việt vẫn là tiếng Việt.
Nhất nhị tam là dấu tích lệ thuộc Tầu.
Một hai ba là niềm tự hào của một dân tộc nhất quyết không bị đồng hóa.
Vay mượn Kim Vân Kiều truyện là dấu tích lệ thuộc Tầu.
Đoạn Trường Tân Thanh là niềm tự hào của văn chương Việt.
Vì thế, “ Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn.”
2- CÓ TRỜI MÀ CŨNG TẠI TA
Thuyết Thiên Mệnh rất dễ bị đánh đổ.
Hai giáo sư triết học Nguyễn văn Trung và Trần bích Lan dùng luận cứ Tự Do của con người đánh đổ thuyết Thiên Mệnh. Rất hay.
Nhưng bảo rằng Kiều đẻ ra nỗi đoạn trường của nàng thì nghe …thế nào ấy (3). Và bảo rằng thông điệp của Nguyễn Du là “ thông điệp về cuộc sống của con người như một phiêu lưu tự do” thì thú thật tôi chưa bao giờ học triết học nên nghe thấy hay nhưng không khác vịt nghe sấm.
Thiền sư Nhất Hạnh cũng đánh đổ Thiên Mệnh bằng Tự do của con người, nhưng nói thêm : Tự do khởi từ Chánh Niệm
Chánh Niệm là gì ?
“ Là khi đi thì phải biết mình đi, khi đứng thì phải biết mình đứng, khi uống nước thì phải biết mình uống nước…”(4).
Đến đây thì sự cao siêu đã vượt quá tầm hiểu biết của tôi.
Một đằng là phiêu lưu tự do, một đằng là khi đi thì phải biết mình đang đi. Đây quả là nơi đàm luận của những bậc thức giả, tôi không nên mon men lại gần.
Nhưng lại nghĩ, Truyện Kiều là của tất cả mọi người, không phải của riêng ai. Nên đánh bạo thưa rằng :
Nguyễn Du không chỉ nói tới Thiên Mệnh mà còn nói tới nhiều thứ : trời, ta, tài, tai, thiện, tâm, nghiệp, mệnh. Trong nhiều thứ lộn xộn ấy, ẩn dấu một chân lý rất đơn sơ :
có trời mà cũng tại ta
3- KIỀU YÊU AI NHẤT ?
Anh bạn rất thích đề tài này đố tôi : trong ba người Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, Kiều yêu ai nhất. Tôi nói làm sao mà biết được Kiều yêu ai nhất, nhưng chắc là Nguyễn Du cho Kiều yêu Từ Hải nhất nên có câu thơ hay như vầy :
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm
Anh bạn không đồng ý. Anh nói Kiều yêu Thúc Sinh nhất, câu thơ tả nỗi tương tư của hai người này hay và nổi tiếng hơn câu kia gấp mấy chục lần :
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dậm trường
Nghe có lý. Nhưng có người phản đối, bảo rằng Kiều không bao giờ yêu Thúc và Từ. Lý do thì nhiều, nhưng trước hết là hai ông này không tương xứng, không trai tài gái sắc như Kim Trọng (5). Nghe vậy chắc lại có người không đồng ý. Nhưng thôi, Thúc và Từ là chuyện đã qua, xin hãy nói về chuyện bây giờ : Kiều đoàn tụ với Kim Trọng.
Nhà văn Vũ Khắc Khoan nói rằng Nguyễn Du quan niệm hôn nhân hạ thấp tình yêu, vì thế Kim và Kiều như hai giáo sĩ lập nên một bàn thờ để tôn thờ mối tình của họ (6). Tôi e rằng lập luận này hơi gượng ép.
Thiền sư Nhất Hạnh thì nói rằng lần này Kiều quyết chí tu thật rồi, kéo theo Kim Trọng cùng tu nữa (7).
Tôi không tin. Nếu muốn tu thì phải cất một cái am sau vườn, một mình tụng kinh gõ mõ. Cứ như thế này thì tu nỗi gì :
Khi chén rượu khi cuộc cờ
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên
Kiều vẫn yêu Kim Trọng lắm. Như bao giờ. Như chưa hề yêu ai :
Chữ trinh còn một chút này
Kiều cũng biết rằng Kim Trọng vẫn yêu Kiều lắm :
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười năm xưa
Câu nịnh hơi quá, nhưng có sự thật là Kim thấy Kiều vẫn đẹp, rất đẹp.
Vậy tại sao ? Cái gì ngăn trở ?
Có lẽ sự ngăn trở đó là mười lăm năm luân lạc của Kiều rất khác với mười lăm năm học hành, làm quan, sinh con đẻ cái của Kim Trọng.
Kiều cần sự hiểu biết của Kim Trọng. Để làm chồng, trước hết Kim phải là người tri kỷ.
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm
Nói thế thì chàng Kim rất thông minh nhưng vẫn chưa hiểu. Phải là chăn gối mới ra sắt cầm chứ. Yêu Kiều, chiều theo Kiều, muốn ra sao thì ra. Thế thôi.
Cần có thời gian.
Khi tương tri đã thật là tương tri thì tình yêu Kim Kiều không còn gì ngăn trở, và ranh giới cầm sắt cầm cờ sẽ không còn nữa.
4- CÁI HAY CỦA TRUYỆN KIỀU
Nếu không biết tác giả, tôi đoán ngay câu này là của Vũ Hoàng Chương hay Đinh Hùng :
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình
Cái mới trong thơ Nguyễn Du thật đáng kinh ngạc.
Cái mới, cái hay về văn chương này là cái người ta thưởng thức trong lúc nhàn hạ ngâm nga, không phải là điều tôi muốn nói tới.
Năm 1979, ở trại tù cải tạo Nam Hà, anh bạn đưa tôi xem tấm postcard do người yêu gửi vào, trên đó chỉ ghi một dòng :
Mai sau dù có bao giờ
Câu thơ này tôi đã từng biết đâu có gì lạ đâu, lúc ấy sao bỗng nghe buồn quá. Cánh đồng mùa đông trơ trụi bỗng như trải dài vô tận. Phút giây ấy bỗng như thiên thu.
Đây là lần đầu tiên tôi biết đến cái “ hay “ của Truyện Kiều. Tôi ngạc nhiên về sức mạnh ghê gớm của câu thơ.
Tôi cho là Truyện Kiều có linh hồn. Biết được cái hay của Truyện Kiều là khi mình rung động không chỉ vì vẻ đẹp bên ngoài mà là sự hoà nhập sâu thẳm của hai tâm hồn.
Một lần khác, ở Mỹ, được nghe anh bạn nhắc đến câu :
Tưởng bây giờ là bao giờ
Tôi thích câu này quá chừng. Trời ơi, sao mà hay thế. Tôi muốn viết một bài luận văn ca ngợi cái hay của câu thơ, bàn đến hết mọi vẻ đẹp của nó và nói lên lòng mình rung động thế nào. Nhưng không thể nào viết nổi.
Có những cảm xúc lớn lao người ta không thể diễn tả được, ngôn ngữ trở nên quá thiếu thốn. Chẳng hạn như nói đến nỗi đau khổ, ngoài mấy chữ đoạn trường đứt ruột, không còn biết nói sao hơn.
Tưởng bây giờ là bao giờ cũng thế. Còn biết nói sao hơn.
Có một hình ảnh có thể so sánh : Ngày mới qua Mỹ, đứng trơ vơ trên đường Bolsa trước khu Phước Lộc Thọ. Bỗng gặp người bạn đồng khoá, đồng tù, cũng mới qua. Mừng ơi là mừng. Không chỉ là “ tha hương ngộ cố tri “ mà trong nỗi mừng vui có cái bóng của mười mấy năm qua.
Đời tôi có hai lần cảm xúc mãnh liệt với Truyện Kiều như thế. Tôi nghĩ, nếu mình không đi tù cải tạo thì chắc gì đã có dịp biết được cái hay của Truyện Kiều. Tôi không có ý nói là cứ phải đi tù cải tạo thì mới biết được cái hay của Truyện Kiều : Hai trăm năm nay và nhiều trăm năm nữa, người ta rung động với Kiều mỗi người mỗi cách. Riêng tôi, đến bây giờ thỉnh thoảng vẫn nằm mơ thấy mình chuyển trại, rung cảm của tôi với Kiều không tách rời khỏi những ngậm ngùi của cuộc chiến vừa tàn.
NCM
01-2013
CHÚ THÍCH :
(1) : Gồm có :
– Nhất Hạnh, Thả một bè lau, Truyện Kiều dưới cái nhìn Thiền quán, Lá Bối xb San Jose 2000.
– Vũ Hoàng Chương, Góp phần hiểu biết
– Nguyễn văn Trung, Đặt lại vấn đề Truyện Kiều hay phê bình văn học.
– Nguyễn sỹ Tế, Triết lý đoạn trường.
– Trần bích Lan, Nguyễn Du trên những nẻo đường tự do.
– Doãn Quốc Sỹ, Tình quê hương của Thúy Kiều.
– Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Du và tình yêu.
– Trần Thanh Hiệp, Để giải quyết mâu thuẫn trong ĐTTT
– Thanh Tâm Tuyền, Cửa vào ĐTTT
– Đàm Trung Pháp, Đọc lại Truyện Kiều để yêu thêm tiếng Việt.
– Phạm thị Nhung, Tiếng đàn Thuý Kiều.
– Dương anh Sơn, Nguồn gốc ĐTTT
– Nguyễn thị Hoàng, Tâm hồn, tư tưởng, nghệ thuật của Nguyễn Du qua Truyện Kiều
– Tạ Quang Khôi : – Vay mượn trong văn học cổ Việt Nam.
-Có nên định lại giá trị ĐTTT không.
-Nhân vật Truyện Kiều.
-Minh oan cho Hoạn Thư
(2) : Tạ Quang Khôi, Vay mượn trong văn học cổ Việt Nam : “ Tổ tiên chúng ta phát xuất từ vùng Triết Giang bên Trung Hoa, là một trong nhóm Bách Việt ở Tây Nam Trung Hoa, như nước Việt trong thời chiến quốc( Câu Tiễn), Việt Đông ( Từ Hải). Từ Trung hoa mà ra, tất nhiên ta phải theo văn hóa Trung hoa. Như vậy không còn gọi là ảnh hưởng nữa.”
(3) : Nguyễn văn Trung, Đặt lại vấn đề Truyện Kiều hay phê bình văn học :” Kiều luôn luôn hành động như một tự do quyết định và lựa chọn, và nếu có định mệnh thì chính Kiều đã chọn định mệnh : Tự do của Kiều đã đẻ ra định mệnh, vì nếu nàng không tự ý bán mình chuộc cha, còn đâu là định mệnh.”
(4) : Nhất Hạnh, Thả một bè lau, trang 461.
(5) : Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Du và tình yêu :” Thúc Sinh có thể say mê Kiều, nhưng đáp lại Thúc, Kiều chỉ cảm thấy cái ý nghĩa lứa đôi. Từ Hải có thể thành thật yêu Kiều, nhưng đối với Từ, Kiều chỉ có long kính phục…
“ Về mọi phương diện phải công nhận rằng hai bên Kim Kiều đã rất xứng đôi vừa lứa. Tài ngang nhau, sắc ngang nhau, gia thế xấp xỉ như nhau…”
(6) : Vũ Khắc Khoan, bài đã dẫn :” Và cả hai chợt hiểu : đối với họ, đối với mối tình của họ, giai đoạn thứ ba không thể là giai đoạn hôn nhân. Mối tình đầu đã thăng hoa đến chỗ tuyệt vời. Giai đoạn thứ ba chỉ có thể là giai đoạn mặc niệm.
“ Và một thái độ : thái độ của một đôi giáo sĩ cùng chung một niềm thông cảm trước bàn thờ, nơi yên vị tự mười lăm năm cũ, một mối tình đầu đã thăng hoa đến chỗ tuyệt vời.”
(7) : Nhất Hạnh, sách đã dẫn, trang 388 và tiếp theo :” Thứ tình đam mê mười lăm năm trước bây giờ đối với Thúy Kiều đã lạnh như tro tàn. Kiều đã học được tình thương trong đạo Bụt, thứ tình giải thoát từ bi.”
.
Bài này đã được đăng trong
Tin Tuc Nội Bộ. Đánh dấu
đường dẫn tĩnh.
Bạn phải đăng nhập để bình luận.