Khóa 1 Houston họp mặt đầu năm 2024

Buổi Họp Mặt Khoá 1 Học Viện Cảnh Sát VNCH tại nhà K1 Lê Phát Minh, Chúa Nhựt 21/4/2024…lâu ngày gặp nhau hàn huyên không dứt, rất tiếc lần này K1 Lê Văn Thao có nhu cầu out of Town nên không chở dược một số anh chị em vì không lái xe được nên vắng mặt một số anh chị em (Lành, Hoa, Lê Lang)…Hẹn gặp lại lần sau đông đủ hơn.
K1 Lê Phát Minh tường trình

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Bình luận về bài viết này

Happy Birthday Sum Tran

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Bình luận về bài viết này

Phân Ưu

Phân Ưu

Screenshot

Screenshot

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Phân Ưu

Căn Nhà Nhỏ và Gia Đình K1 Tưởng Niệm Tháng TƯ Đen.

NHẬT KÝ THÁNG TƯ

OIP (4)

Tờ lịch Tháng Tư lại đến rồi
Ngày Ba Mươi, nhớ lại buồn ơi !
Nhớ khi lệnh xuống tan hàng ngũ
Ngơ ngác nhìn nhau nước mắt rơi

Những tưởng từ đây chinh chiến tan
Người người cả nước sẽ hân hoan
Ngờ đâu bên thắng từ phương bắc
Sớm lộ nguyên hình lũ ác gian

Người lính miền nam nghĩ thoáng thôi
“Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” (1)
Ngày tàn cuộc chiến còn sống sót
Đâu nghĩ ngục tù giăng khắp nơi

Mang thân tù tội mấy ai về
Rừng thẳm suối hoang ngỡ bến mê
‘Lao động vinh quang’ đời lao cải
Bao người xác gởi chốn sơn khê

Nhưng cũng đành thôi kiếp đoạn trường
Công hầu khanh tướng mộng đành buông
Nghĩ mình xấu số đời đen bạc
Tình nghĩa đồng minh thật chán chường

Hôm nay đất khách tháng tư này
Cờ rủ ngoài đường gió khẽ lay
Trời chẳng mưa sa mà mắt ướt
Bạc đầu quốc hận gió mây bay

Rồi sẽ một ngày trở lại thôi
Vinh quang ngày ấy rạng môi cười
Cờ vàng rực rỡ trên quê cũ
Ta sẽ mừng vui mắt lệ ngời

(1): Câu thơ cổ của Vương Hàn đời nhà Đường bên Trung Quốc

TOÀN NHƯ

RŨ SẠCH BỤI TRẦN

Trời tháng tư mây chiều bay lãng đãng
Mưa buị giăng mắc phố vắng thưa người
Con đường xưa mang tên kẽ xa lạ
Hàng cây cao nghiêng bóng đứng rũ rười
Em đi rồi ngày vui chưa thấy đến
Để hoa bướm chờ đợi suốt mùa xuân
Non nước ngút ngàn bàn tay nhỏ bé
Hận quân thù ai nỡ giận cố nhân
Về đây em cho một lần hoà giải
Xoá hết niềm đau lỗi hẹn bất thành
Tuổi trẻ nào chẳng mang đầy lý tưởng
Ước nguyện lòng xây mộng đẹp ngày xanh
Em về đây như nàng tiên huyền diệu
Giải hương thề giao ước buổi chia phôi
Rũ sạch bụi trần ân tình duyên nợ
Vuông tròn nghiệp dĩ thảnh thơi cuộc đời

Phiến Nguyễn

THÁNG TƯ BUỒN

Nhìn quê hương niềm đau thương chất ngất
Thành phố buồn không một bóng người thân
Buông tay súng cuộc đời đành lỗi hẹn
Tôi bơ vơ như một kẻ thất thần
Cưả nhà tan hoang xóm làng hiu quạnh
Ngọn lửa nào thiêu đốt cả đình chùa
Ngôi thánh đường loang lỗ khung than sắt
Lòng rủ rười bao đắng xót cay chua
Con đường hoa phượng ngã nghiêng sỏi đá
Bóng dáng xưa tha thướt bước về đâu
Aó mới mùa xuân em may đã mặc ?
Khi chiếc cầu gảy nhịp giữa đêm thâu
Góp thương yêu xin trao về chốn cũ
Chút hương tình tha thiết cuả trời xuân
Và em tôi người em chưa gặp lại
Đã lâu rồi xuôi ngược bước phong trần
Thời gian trôi theo dòng đời phiêu bạt
Bao năm qua xa vắng chốn quê nhà
EM về đâu giữa đất trời dâu bể?
Ánh mắt thơ ngây còn có nhạt nhòa ?

Phiến Nguyễn

CON TRĂNG THÁNG TƯ 

Đêm qua trăng rọi xuống đời
Vòi em trả mối tình rơi thuở nào
Trời cao lấp lánh nghìn sao
Hồn em giông bảo… đảo chao… bồi hồi…
Đường trần gió bạt sóng nhồi
Thương trăng vẫn sáng một trời thủy chung
Nửa trăm năm! Ôi… trùng trùng…
Tóc tơ ngổn ngang… tương phùng bi ai…
Trăng buồn trăng khuyết hình hài
Tháng Tư khàn giọng khóc ngày ly tan
Buốt xương cái thuở ngọc ngà
Chỉ xin trăng dải lụa là làm riêng
Đêm dài quấn lấy nỗi niềm
Nợ trăng em sẽ đáp đền kiếp sau..

Điệp Nông

HẬN SÀI GÒN

Hận nước chưa nguôi tuổi đã già
Sài Gòn nỗi nhớ khó phôi pha
Câu thơ vận khổ chua men rượu
Khúc nhạc cung ai đắng vị trà
Đất khách ngậm ngùi thân viễn xứ
Quê người mòn mỏi kiếp vong gia
“Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”* .

LHN

*thơ Đặng Dung

Ngày 30 tháng 4 là ngày mà CSVN gọi là ngày Giải Phóng trong khi người Việt hải ngoại lại coi là ngày Quốc Hận . Nếu gọi cho đúng với cả dân tộc Việt Nam , trong cũng như ngoài nước , thì phải gọi đó là Ngày Quốc Nhục . Vì chính ngày nầy CSVN đã viết ra một trang ô nhục cho Lịch Sử Việt Nam .

Ngày Quốc Nhục

“Quang vinh” khỉ mốc ! Non sông hỡi !
Giải phóng quái gì ! Tổ quốc ôi !
Xáo thịt đồng bào tim quỉ dữ
Nồi da dân tộc vuốt chồn hôi
Đánh cho Trung Cộng còn khua mỏ
Khiến bởi Liên Sô cũng múa môi
Tô vết chàm lên trang sử Việt
Chỉ là Ngày Quốc Nhục mà thôi .

LHN

THÁNG TƯ ĐEN

 Làm sao quên được tháng tư đen?
Mù mịt trời Nam dập tắt đèn
Đâu dễ nuốt hờn dầu một phút
Khó mà nguôi hận dẫu bao phen
Giang sơn thuở trước vang hào kiệt
Xã  tắc   từ   nay loạn   lũ   hèn
Tóc bạc mừng nhau nơi viễn xứ
Đồng thuyền,đồng hội đã từng quen.

LÊ VĂN THUẬN (Cóc Biển)

Thiên đường XHCN.

Bốn chín năm ròng ngưng chiến tranh
Việt Nam phát triển đến tanh bành
Làng trên xóm dưới rợp màu đỏ
Quần lót ghế ngồi cũng đỏ tanh

Nón cối tai bèo đâu mất hết
Dép râu dép lốp biếng vô thành
Công viên, chùa, tượng dựng lên khắp
Nghỉ dưỡng công trình mở cạnh tranh

Phố thị mưa về dân ngập lụt
Thôn quê nắng đến đật khô cằn
Đầy đường vé số người đi bán
Ùn tắc giao thông bò trắng răng

Đói khổ làm thinh ai dám nói
Coi chừng hó hé bắt giam ngay
Tuyên truyền chống phá nhà nước tốt
Cải tạo muốt mùa hết thày lấy

Trường học chuyên đào chính trị học
không đáp ứng khó ra trường
Lời ăn tiếng nói theo lề Đảng
Đỉnh cao trí tệ phải am tường

Gia đình được gọi là hộ khẩu
Ngôi nhà phải nói đây căn hộ
Ghi tên lạc hậu thay đăng ký
Sự cố cực kỳ nhớ nhét vô

Trên toàn thế giới ai cũng rõ
Việt Nam Xã Nghĩa đến coi chừng
Túi tiền không cánh mà bay đó
Cẩn tắc còn hơn tánh dửng dưng

Những ai còn chút tâm hồn Việt
Hãy nói dùm tôi ‘Thiên đường mù
Đừng nên mơ tưởng mà nên diệt
Cùng rỉ tai nhau diệt Cộng thù ./-

TQN .

  THÁNG TƯ ĐEN

Tháng Tư đen, cả nước thương đau !
Nửa thế kỷ non máu lệ trào.
Nát cửa tan nhà đời vất vưởng.
Không nơi trú ngụ sống lao đao.
Dân oan ức kiện quan không tiếp.
Mất đất đi thưa Đảng cấm vào.
Bốn chín năm con đường chủ nghĩa.
Việt Nam cộng sản phản đồng bào !
Tuyến Lê Sydney
Apr 9-24

QUÊ HƯƠNG LẬN ĐẬN

Ta trải qua cuộc đời đầy biến động
Từ bé thơ lửa đạn dậy khắp nơi
Quê hương nghèo lại tang tóc đầy vơi
Đêm liền đêm hỏa châu rơi buồn thảm

Tiếng đì đùng vọng về từ xa thẳm
Khắp xóm làng vành tang trắng đau thương
Những trẻ thơ ngơ ngác buổi đến trường
Đi vội vã trên đường đầy lính trận

Ta lớn lên trên quê hương lận đận
Cuộc tương tàn lan rộng khắp non sông
Để mẹ cha lo lắng mãi chất chồng
Con vừa lớn đã vào trong khói lửa

Trời miền nam đạn réo hồn từng bữa
Tháng tư về trời tối giữa ban trưa
Đời tự do mất trắng thật chẳng ngờ
Ta bị hành đến lên bờ xuống ruộng

Đời ấm êm bỗng tan theo gió chướng
Bao hận thù trút xuống kẻ sa cơ
Bị truy bức đói khổ đến vô bờ
Bên thắng cuộc vẽ vời theo ý muốn

Mất nước rồi lòng ta đầy sầu muộn
Lìa quê cha tìm cuộc sống lưu vong
Vì tự do đành từ biệt người thân
Mang tổ quốc trong lòng đi viễn xứ

Việt Nam chừ đang mất dần mọi thứ
Mất chủ quyền mất dân chủ tự do
Bao nhiêu năm vẫn tìm kiếm mày mò
Quanh quẩn mãi chỉ vì lo giữ ghế

Quá đủ rồi đã phí nhiều thế hệ
Nước khó nghèo mà ngạo nghễ sân si
Ôm khư khư chủ nghĩa có ích gì
Để dân tộc đắm chìm trong lạc hậu.

TPK

Tháng Ba 2024
Tưởng Niệm 30-4-75

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Căn Nhà Nhỏ và Gia Đình K1 Tưởng Niệm Tháng TƯ Đen.

Tâm sự tuổi già – Đỗ Hữu Phương

TÂM SỰ TUỔI GIÀ.

anh-2-cu-gia-hanh-phuc-cuoi-cung-nhau

Từ khi người Việt tị nạn trên thế giới vào năm 1975 đến nay thì thế hệ Cha Mẹ chúng ta, bậc Anh Chị chúng ta đang vui hưởng tuổi già và bây giờ đến lứa tuổi mà người ta gọi là baby boomer cũng đã và đang bắt đầu về hưu rồi.

Đời người thật ngắn ngủi. Nhớ lại vào lứa tuổi đôi mươi, chúng ta lang thang trong khung viên trường đại học, vui cười vô tư và bây giờ đã hơn 40 năm trôi qua rồi. Đời người thoáng chốc đã già. Hơn bốn mươi năm trôi qua, chúng ta đã trải qua một đoạn đời trai trẻ trong một đất nước chiến tranh. Dầu trực tiếp cầm súng chiến đấu tại mặt trận, hay gián tiếp chống lại kẻ thù chung, chúng ta đã trải qua những năm tháng sống nay, chết mai và cuộc sống không có tương lai. Và rồi, những năm bị đầy đọa cực kỳ gian khổ trong các trại tù hay những ngày lo sợ vì đói khát, chết chóc trong khi tìm cách vượt biên tìm tự do. Đến được đất nước thanh bình với một thân thể đã yếu, tinh thần còn vương vấn những khổ đau trong quá khứ, và rồi phải tiếp tục đi “cầy” để lo cho cuộc sống trên xứ lạ quê người…

Bây giờ, những năm còn lại trong cuộc đời của một người, chúng ta cần sống thanh thản, sống thoải mái, sống hạnh phúc. Vì qua một ngày, chúng ta đã mất một ngày. Vì vậy, một ngày đến, chúng ta vui một ngày. Vui một ngày…rồi không biết được bao nhiêu ngày nửa. Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, vui sướng cũng do chính mình tìm lấy vì những niềm vui ấy đã ẩn chứa trong những sự việc nhỏ nhặt xãy ra trong đời sống. Hạnh phúc là những gì hiện đang ở chung quanh chúng ta, trong tầm tay chúng ta. Nhà nho Nguyễn Công Trứ quan niệm “ Tri túc, đãi túc, tiện túc, hà thời túc. Tri nhàn, đãi nhàn, tiện nhàn, hà thời nhàn”…

Tiền rất quan trọng trong đời sống của con người, nhưng tiền không phải là tất cả. Đừng quá coi trọng đồng tiền, và cũng đừng lệ thuộc vào đồng tiền, mặc dù biết rằng nếu không có tiền thi làm sao chúng ta sống, làm sao để được thoải mái. Ta vẫn biết khi ta ra đời ta đâu có mang nó đến, và khi ra đi chúng ta cũng không mang nó theo. Đồng tiền có thể mua một lâu đài to lớn, nhưng đồng tiền không mua được mái ấm gia đình. Đồng tiền giúp chúng ta mua được nhiều thứ tiện nghi trong cuộc sống, nhưng đồng tiền không mua được sức khỏe cũng như hạnh phúc trong đời sống. Quảng đời còn lại thì quá ngắn ngủi, ta phải sống những ngày tháng cho đáng sống, ta phải làm cho cuộc đời thêm phong phú. Chúng ta phải thay đổi cuộc sống khổ hạnh thời xa xưa, đừng nghĩ đến những năm tháng đói, lao động khổ cực trong các trại tù miền Bắc, hay những ngày tháng đói, khát trên biển cả trong khi đi tìm tự do. Những gì cần ăn thì cứ ăn, cần mặc thì cứ mua sắm, muốn đi du lịch thì cứ đi. Tập cho mình có nhiều đam mê, tự tìm niềm vui cho chính mình. Vào trong internet để gửi thư cho bạn bè, để chia sẻ một tin hay, một chuyện vui, một bản nhạc, đọc những bài viết có giá trị, hay “chat” với người quen biết. Chúng ta cần trao dồi bộ óc để trí nhớ vẫn còn sáng suốt. Nếu có người bạn cần giúp, ta cứ mở lòng nhân ái, tốt bụng với mọi người. Rảnh rổi đi làm những việc từ thiện ngoài xã hội, giúp một tay tại những nơi tôn kính như nhà Chùa, nhà Thờ,… lấy việc giúp người làm niềm vui, đó là những thú vui trong tuổi già.

Hơn nửa đời, chúng ta dành khá nhiều cho sự nghiệp, cho gia đình, cho con cái, bây giờ thời gian còn lại chẳng bao nhiêu nên dành cho chính mình, quan tâm bản thân, sống thế nào cho thanh thản, vui vẽ. Việc gì muốn thì làm, ai nói sao thì mặc kệ vì mình đâu phải sống để người khác thích hay không thích, nên sống thật với mình. Sống phải năng hoạt động nhưng đừng quá mức, ăn uống quá kiêng cử thì không đủ chất bổ dưởng, quá nhàn rổi thì buồn tẻ, quá ồn ào thì khó chịu…

Cuộc sống tuổi già thật đa nguyên, đa dạng, nhiều màu sắc nên ta cần có nhiều bạn bè, nhiều nhóm bạn bè hoặc tham dự vào những sinh hoạt trong các Hội đoàn ái hữu lành mạnh. Gặp bạn, nói ra những điều phiền muộn cho nhau nghe. Hãy tìm cách gặp gở bạn bè và người thân vì không còn nhiều thời gian nửa. Một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chổ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh. Đừng bao giờ nói, hay nghỉ là: “ Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nửa”. Đừng nói những lời hay những tư tưởng có ý tuyệt vọng. Người già chỉ sảng khoái khi được có bạn tâm giao, đó là một lều thuốc bổ mà không Bác sĩ nào có thể biên toa cho ta mua được.

Ở tuổi hiện tại, chúng ta đừng nghỉ đến đồng tiền, đừng nghỉ đến giàu hay nghèo nửa và cũng đừng than trách hay hối hận vì những lầm lỗi trong quá khứ và cũng đừng tự hỏi là tại sao bây giờ ta không có nhiều tiền. Đừng nói ta không có tiền. Có những thứ hiện đang chung quanh ta rất quí giá mà có nhiều tiền cũng không mua được, đó là người phối ngẩu của chúng ta. Nếu có chút ít đồng tiền thì cứ tiêu xài những gì ta cần vì sẽ có lúc chúng ta để lại cho người khác xài. Nếu hôm nay ta còn khoẻ mạnh, còn ăn được những món ăn ta thích và ăn biết ngon là ta đã có một khối tài sản to lớn trong tuổi già. Rồi ta tìm đến những người bạn cùng nhau uống tách trà nóng, ly cà phê buổi sáng, kể chuyện năm xưa hay trao đổi những kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại. Cuối tuần, hẹn nhau với người bạn đi câu cá, hưởng không khí trong lành của thiên nhiên và cũng để cho tâm tư lắng đọng, tinh thần thanh thản. Đó là những niềm vui trong cuộc sống cuả tuổi già.

Tứ khoái của tuổi già là: Ăn, ngủ, thể dục và du lịch. Ăn được ngủ được là Tiên. Ăn và ngủ đi đôi với nhau. Người lớn tuổi có nhiều thì giờ nghỉ ngơi, cần có chế độ ăn uống bổ dưởng, cung cấp đủ calories cho cơ thể. Sự luyện tập thể dục là thỏi nam châm của cuộc sống và là kim chỉ nam của tuổi thọ. Đi du lịch để cho cuộc đời thoải mái, trí óc thanh thản và vui sống.

Khi về già, chúng ta thường hay sống về quá khứ, hay nhớ lại chuyện xưa. Sự nghiệp, vinh quang xưa kia đã trở thành mây khói, xa vời. Hẹn nhau trong những buổi họp mặt để ta có nhiều người bạn tâm tình, kể lại những kỷ niệm đẹp trong quá khứ…vui cười thích thú. Vợ chồng sống hạnh phúc bên nhau, luôn luôn yêu thương người bạn đời, gắn bó với nửa kia của mình, là điều mà chúng ta mong ước. Đưa các cháu đi học, đi ăn, chơi đùa với các cháu… là thú vui của tuổi già. Ta phải làm thế nào tuổi già mà tâm không già, thế là già mà không già. Nụ cười là lều thuốc bổ quí nhất. Chúng ta cần tránh đi những sự cải vã, tranh dành hơn thua từng lời nói hoặc những tranh chấp vô ích với bất cứ ai. Chính những lúc cải vã, giận dữ đó đã đánh mất đi những niềm vui trong cuộc sống, không thích hợp trong tuổi chúng ta, nhất là những người đang đau yếu. Chúng ta phải đối diện với bệnh tật một cách lạc quan, tự tin, đừng quá lo âu. Khi đã làm hết khả năng theo tầm tay, sẽ có thể ra đi mà không hối tiếc. Hãy để Bác Sĩ chăm sóc, luôn luôn giử bình an trong tâm hồn.

Chúng ta có thể nói là mình có hạnh phúc thật sự khi có sức khỏe tốt, chịu đi tập thể dục, có cơ hội du lịch thường xuyên, ngủ ngon, ăn uống ít kiêng cử khi vào tuổi hoàng hôn. Thiên đàng không phải đi tìm đâu cho xa mà thiên đàng do ta dựng lên và chui vào đó mà hưởng hạnh phúc. Sự sung sướng và hạnh phúc trong cuộc đời tùy thuộc vào sự thưởng thức nó ra sao. Người hiểu đời rất quí trọng và biết thưởng thức những gì mình đã có, và không ngừng phát hiện thêm ý nghiã của nó làm cho cuộc sống vui hơn, giầu ý nghiã hơn.

Hoàn toàn khoẻ mạnh, đó là thân thể khoẻ mạnh, tâm lý khoẻ mạnh và đạo đức khoẻ mạnh…Tâm lý khoẻ mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao tiếp; Đạo đức khoẻ mạnh là có tình yêu thương, sẳn lòng giúp người, có lòng khoan dung. Người thích làm điều thiện sẽ sống lâu. Con người là con người xã hội, không thể sống biệt lập, bưng tai, bịt mắt, nên chủ động tham gia hoạt động công ích, hoàn thiện bản thân trong xã hội, thể hiện giá trị cuả mình đó là cách sống lành mạnh.

SINH, LÃO, BỆNH, TỬ là qui luật ở đời, không ai chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống ngay thẳng không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng cuộc đời của một người cũng chỉ là con số không to lớn.

Đỗ Hữu Phương.

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Tâm sự tuổi già – Đỗ Hữu Phương

Phân Ưu K1 Lưu Mỹ

unnamed

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Phân Ưu K1 Lưu Mỹ

Bài Thơi Gởi Bạn! (ST) từ FB Cựu SV Hoc viện CSQG

Bài thơ gửi bạn !

277781506_295571142732752_8613020921555111175_n

Tao bị thương hai chân : cưa ngang đầu gối .!
Vết thương còn nhức nhối..
Da non kéo chưa kịp lành..
Ngày “giải phóng miền Nam”….!

Vợ tao “ẩm” tao như một đứa trẻ sơ sinh ..!
Ngậm ngùi rời “Quân Y viện”
Trong lòng tao chết điếng !
Thấy người lính miền Bắc mang khẩu súng AK !
Súng “Trung cộng” hay súng của Nga ?
Lúc này… tao đâu cần chi để biết .

Tao chiến đấu trên mảnh đất tự do… miền Nam nước Việt .
Mang chữ “Ngụy” thương binh nên người anh em phía bên kia… đối xử với tao không một chút thân tình .

Mày biết không !
Tao tìm đường về quê …nhìn không thấy ánh bình minh .
Vợ tao như “thiên thần” từ trên trời rơi xuống .
Nhìn hai đứa con… ngồi trong căn chòi gió cuốn .
Bụi đất đỏ mù bay
Tao thương vợ tao yếu đuối.. chỉ có hai tay .
Làm sao ôm nổi 4 con người trong cơn gió lốc .

Cái hay là vợ tao giấu đi đâu tiếng khóc .
Còn an ủi cho tao : một thằng lính què .
Tao đóng hai cái ghế thấp nhỏ bằng tre .
Làm đôi chân ngày ngày đi lại .
Tao quét nhà , nấu ăn , giặt quần , giặt áo .
Cho heo ăn thật là “thoải mái” !
Lê lết ra vườn nhổ cỏ , bón phân .
Đám bắp vợ chồng tao trồng xanh tươi .
Bông trắng trỗ trắng ngần .
Lên líp trồng rau thân tàn tao làm nốt .
Phụ vợ đào ao sau vườn… rồi thả nuôi cá chốt .

Đời lính gian nan sá gì chuyện gió sương .
Xưa…nơi chiến trường
Một thời ngang dọc .
Cụt hai chân.. vợ tao hay tin nhưng không “buồn khóc” .
Vậy mà bây giờ…
Nhìn tao : Nước mắt bả rưng rưng…!

Lâu lắm… tao nhớ mày quá chừng .!
Kể từ ngày mày “được đi cải tạo” !
Hàng thần lơ láo – Xa Xót cảnh đời .
Có giúp được gì cho nhau đâu khi :
– Tất cả đều tả tơi..!

Rồi đến mùa H.O….
Mày đi tuốt tuột một hơi .
Hơn mười mấy năm trời .
Không thèm quay trở lại .
Kỷ niệm đời chiến binh .
Một thời xa ngái .

Những buổi chiều ngồi hóng gió.. nhớ mày buồn hiu .
Mai mốt mày có về thăm lại Việt Nam .
Mày sẽ là “Việt kiều” !
Còn “yêu nước” hay không – mặc kệ mày ,
Tao đếch biết .
Về.. ghé nhà tao.. Tao vớt cá chốt lên chưng với tương…
Còn rượu đế.. tự tay tao nấu .
Cứ thế hai thằng mình uống cho đến… điếc..!

.st.

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Bài Thơi Gởi Bạn! (ST) từ FB Cựu SV Hoc viện CSQG

“Tự Do Là Một Trách Nhiệm” (ST)

Bài đã được lan truyền nhanh đến chóng mặt, nhưng chưa được 12 giờ nó đã bị Trung cộng gỡ khỏi mạng xh. Nguyên văn :

“TỰ DO LÀ MỘT TRÁCH NHIỆM”(1)

Chào các em sinh viên! Xin chúc mừng các em đã tốt nghiệp!

“Người Bắc Đại” là một vầng sáng, kèm theo đó là trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm đối với dân tộc chịu bao khổ nạn chịu bao chà đạp của chúng ta.

Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh cổ xưa trên thế giới, đồng thời cũng là nền văn minh cổ xưa duy nhất được duy trì cho đến ngày nay. Trung Quốc thời cổ đại có sự phát minh sáng tạo đầy huy hoàng, có đóng góp quan trọng cho sự tiến bộ của nhân loại. Nhưng 500 năm qua, về phương diện phát minh sáng tạo thì Trung Quốc không có gì nổi trội để khen. Chúng ta hãy dùng con số để nói rõ hơn. Theo thống kê của học giả Jack Challoner thuộc Bảo tàng Khoa học Anh, trong khoảng thời gian từ thời kỳ đồ đá (2,5 triệu năm trước) đến năm 2008, đã có 1001 phát minh lớn làm thay đổi cả thế giới, trong đó, Trung Quốc có 30 phát minh, chiếm 3%.

30 phát minh này đều là xuất hiện từ trước năm 1500, chiếm 18,4% trong 163 phát minh lớn trên toàn thế giới trước năm 1500. Trong đó, phát minh cuối cùng là bàn chải đánh răng được phát minh năm 1498, đây cũng là phát minh to lớn duy nhất trong triều đại nhà Minh. Từ sau năm 1500, hơn 500 năm toàn thế giới có 838 phát minh, trong số đó không có phát minh nào đến từ Trung Quốc.

Kinh tế tăng trưởng nhờ những sản phẩm mới, công nghệ mới, ngành nghề mới không ngừng xuất hiện. Trong xã hội truyền thống chỉ có vài ngành nghề như nông nghiệp, luyện kim, làm đồ gốm, thủ công mỹ nghệ. Trong đó nông nghiệp chiếm vị trí chủ đạo. Hiện giờ chúng ta có bao nhiêu ngành nghề ? Theo sự tiêu chuẩn phân loại đa tầng quốc tế, chỉ riêng sản phẩm xuất khẩu, số ngành có mã 2 chữ có 97 ngành, 4 chữ là 1222 ngành, 6 chữ là 5053 ngành, và vẫn không ngừng tăng thêm. Những ngành mới này đều những ngành ra đời từ cách đây 300 năm, mỗi một sản phẩm mới đều có thể tra được nguồn gốc phát triển của nó.

Từ sau năm 1500 tất cả những phát minh lớn đều không đến từ Trung Quốc

Trong số các ngành mới, lấy ngành sản xuất ô tô làm ví dụ. Ngành ô tô được những người Đức như Karl Benz, Daimler và Maybach sáng lập vào khoảng giữa những năm 1880, sau đó trải qua hàng loạt cải tiến về công nghệ, chỉ từ năm 1900 đến 1981, đã có hơn 600 mẫu đổi mới quan trọng (theo Albernathy,Clark and kantrow, 1984).

Trung Quốc hiện nay là nước sản xuất ô tô lớn nhất thế giới, nếu như bạn viết một bộ lịch sử về sự tiến bộ của ngành ô tô, trên danh sách sẽ có hàng vạn nhà phát minh có tên tuổi, trong đó có người Đức, người Pháp, người Anh, người Italy, người Mỹ, người Bỉ, người Thụy Điển, người Nhật, nhưng sẽ không có người Trung Quốc.

Dù là những ngành nghề truyền thống mà Trung Quốc từng dẫn đầu từ trước thế kỷ 17 như luyện kim, làm gốm, dệt may, những phát minh lớn cách đây 300 năm, không có phát minh nào là của người Trung Quốc.

Tôi muốn nhấn mạnh sự khác nhau trước và sau năm 1500. Trước năm 1500, thế giới phân chia thành những khu vực khác nhau, mỗi khu vực về cơ bản đều trong trạng thái đóng cửa, một kỹ thuật mới xuất hiện ở một nơi, thì sức ảnh hưởng của nó tới nơi khác là rất nhỏ, và cống hiến của nó đối với nhân loại cũng rất hạn chế.

Ví dụ như, năm 105, ông Thái Luân thời Đông Hán đã phát minh ra kỹ thuật sản xuất giấy, nhưng đến năm sau 751, kỹ thuật sản xuất giấy mới được truyền tới nước Hồi giáo, trải qua 300 – 400 năm mới truyền tới tây Âu.

Nhưng sau năm 1500, toàn cầu đã bắt đầu nhất thể hóa, không những tốc độ phát minh kỹ thuật mới được tăng nhanh, mà sự phổ biến của kỹ thuật cũng gia tăng, một công nghệ mới xuất hiện ở nơi này, nó sẽ nhanh chóng được mang tới nơi khác, và sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến nhân loại.

Ví dụ, năm 1886, người Đức phát minh ra ô tô, 15 năm sau, nước Pháp trở thành nước đứng đầu sản xuất ô tô, qua 15 năm nữa, nước Mỹ thay thế Pháp trở thành cường quốc về sản xuất ô tô. Đến năm 1930, tỷ lệ phổ biến của ô tô Mỹ lên đến 60%

Do đó, sau năm 1500, sáng tạo mới đã thực sự có tính so sánh giữa các nước, chất lượng ai tốt ai không tốt chỉ nhìn là biết ! Trong 500 năm trở lại đây, Trung Quốc không có một phát minh mới nào đáng ghi trong sử sách, điều đó có nghĩa là chúng ta chưa làm được gì để cống hiến cho sự tiến bộ của nhân loại! So với tổ tiên thì chúng ta kém xa !

Tôi còn muốn nhấn mạnh vấn đề về dân số, dân số có nước nhiều nước ít, so sánh đơn giản giữa các nước về phát minh sáng tạo của ai nhiều sẽ không chính xác.

Sự sáng tạo mới phải tỷ lệ thuận với dân số, tại sao Trung Quốc không thế?

Về lý luận mà nói, trong một điều kiện khác, một nước có dân số đông, thì sự sáng tạo sẽ nhiều, tiến bộ về kỹ thuật sẽ nhanh. Hơn nữa, tỷ lệ sáng tạo và tỷ lệ dân số là mối quan hệ chỉ số, không phải đơn giản là mối quan hệ tỷ lệ tương ứng. Có 2 nguyên nhân: thứ nhất, tri thức ở phương diện sản xuất có tính kinh tế và hiệu ứng lan tỏa quan trọng; thứ 2, tri thức ở phương diện sử dụng sản phẩm không có tính ngăn cản người khác sử dụng nó.

Những phát minh cống hiến cho nhân loại của người Trung Quốc không tương xứng với tỷ lệ dân số của Trung Quốc. Dân số Trung Quốc gấp 4 lần dân số Mỹ, gấp 10 lần Nhật, gấp 20 lần Anh, gấp 165 lần Thụy Sĩ.

Nhưng thực tế, trong 500 năm, về phương diện phát minh sáng tạo, sự cống hiến của Trung Quốc gần như con số 0, chưa cần so sánh với nước Mỹ, nước Anh, ngay cả con số lẻ của Thụy Sĩ cũng chưa đạt đến. Người Thụy Sĩ phát minh ra kìm phẫu thuật, máy trợ thính điện tử, dây an toàn, công nghệ chỉnh hình, màn hình LCD, v.v.

Công nghệ mực chống giả được Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc dùng để in tiền là công nghệ của Thụy Sĩ, bột mỳ Trung Quốc sản xuất có 60%-70% máy móc gia công của công ty Bühler của Thụy Sĩ.

Nguyên nhân do đâu? Lẽ nào là do gen của người Trung Quốc? Hiển nhiên là không phải! Nếu không, chúng ta không có cách nào giải thích được sự huy hoàng của Trung Quốc cổ đại.

Hiển nhiên là do thể chế và chế độ của chúng ta. Sức sáng tạo là dựa vào sự tự do! Sự tự do về tư tưởng và tự do về hành vi. Đặc điểm cơ bản của thể chế của Trung Quốc đã hạn chế sự tự do của người dân, nó đã bóp nghẹt tính sáng tạo, giết chết tinh thần của các nhà khởi nghiệp. Người Trung Quốc có sức sáng tạo nhất đó là vào thời Xuân Thu và thời Tống, đây không phải là ngẫu nhiên. Hai thời đại này cũng là thời đại người Trung Quốc tự do nhất.

Trước năm 1500, phương Tây không sáng sủa, phương Đông thì mờ mịt, sau năm 1500, một số nước phương Tây trải qua cải cách tôn giáo và vận động phổ cập kiến thức mới, họ đã dần dần hướng tới tự do và pháp trị, còn chúng ta lại đi ngược đường với họ.

Thể chế Trung Quốc đã hạn chế sự tự do của người dân, cũng hạn chế luôn cả sức sáng tạo

Tôi cần phải nhấn mạnh, tự do là một chỉnh thể không thể tách rời, khi tâm hồn không tự do, thì hành động cũng không được tự do; khi không có tự do ngôn luận, thì tư tưởng không thể tự do được. Chỉ có tự do, thì mới có sự sáng tạo.

Lấy một ví dụ để nói rõ về điểm này. Ngày nay, rửa tay trước khi ăn cơm và sau khi đi vệ sinh đã trở thành thói quen. Nhưng năm 1847, khi bác sĩ nội khoa người Hungari Ignaz Semmelweis đề xuất bác sĩ và y tá phải rửa tay trước khi tiếp xúc với sản phụ, ông đã xúc phạm đến đồng nghiệp, vì thế mà bị mất việc, và chết trong một bệnh viện tâm thần lúc 47 tuổi.

Quan điểm của Ignaz Semmelweis dựa trên sự theo dõi về sốt hậu sản, khi đó tại bệnh viện của ông có 2 phòng sinh, một phòng để phục vụ người giàu, do các bác sĩ và y tá giỏi chăm sóc, những bác sĩ này luôn đổi công việc giữa đỡ đẻ và giải phẫu; một phòng khác là để phục vụ người nghèo, do bà mụ đỡ đẻ. Ông phát hiện, tỷ lệ người giàu bị sốt hậu sản nhiều gấp 3 lần người nghèo. Ông cho rằng nguyên nhân là do bác sĩ không rửa tay. Nhưng cách nhìn nhận vấn đề của ông lại mâu thuẫn với lý luận khoa học thời đó, ông cũng không thể đưa ra những luận chứng khoa học để thuyết minh cho phát hiện của mình.

Thói quen vệ sinh của nhân loại thay đổi thế nào? Việc này có liên quan tới phát minh máy in

Những năm 1440, Johannes Gutenberg đã phát minh ra phương pháp in dấu. Loại máy in sử dụng phương pháp in này đã khiến cho sách vở bắt đầu phổ biến, nhiều người bỗng phát hiện, thì ra họ bị “viễn thị”, thế là nhu cầu về kính lại tăng cao. 100 năm sau khi máy in được phát minh, châu Âu xuất hiện hàng ngàn nhà sản xuất kính mắt, đồng thời cũng làm dấy lên cuộc cách mạng về công nghệ quang học.

Năm 1590, công ty sản xuất kính mắt Janssen Hà Lan đã lắp vài chiếc kính trong một cái ống tròn, và họ phát hiện những sinh vật quan sát qua những chiếc kính này được phóng to lên, từ đó họ phát minh ra kính hiển vi. Nha khoa học người Anh Robert Hook đã sử dụng kính hiển vi để phát hiện ra tế bào, từ đó tạo nên cuộc cách mạng khoa học và y học.

Nhưng kính hiển vi thời đầu không cho hiệu suất cao, cho đến những năm 1870, công ty Carl Zeiss của Đức đã sản xuất ra loại kính hiển vi mới, nó được chế tạo dựa trên công thức toán học chính xác. Nhờ vào loại kính hiển vi này, bác sĩ người Đức Robert Koch đã phát hiện ra vi khuẩn mà mắt người không nhìn thấy, và cũng chứng minh cho quan điểm của bác sĩ người Hungari Ignaz Semmelweis, từ đó lý luận về vi sinh vật và vi khuẩn học ra đời. Nhờ sự ra đời về vi khuẩn học này mà con người đã dần dần thay đổi thói quen, và tuổi thọ của con người cũng được kéo dài.

Chúng ta thử nghĩ: nếu lúc đầu máy in bị cấm sử dụng, hoặc là chỉ cho phép in ấn những gì đã được kiểm duyệt, vậy sách báo sẽ không được phổ cập, nhu cầu về kính mắt cũng sẽ không lớn, kính hiển vi và kính viễn vọng cũng sẽ không được phát minh nữa, ngành vi sinh vật học cũng không được ra đời, tuổi thọ dự tính của con người cũng sẽ không tăng từ 30 lên 70, càng không thể nào mơ tới thám hiểm không gian vũ trụ.

Không bảo vệ tự do thì không xứng với danh hiệu “người Bắc Đại”

Newton mất 30 năm để phát hiện ra lực vạn vật hấp dẫn, tôi mất 3 tháng để làm rõ định luật vạn vật hấp dẫn này, nếu tôi nói mình dùng thời gian 3 tháng để đi hết con đường của Newton, mọi người có thể cảm thấy buồn cười. Ngược lại, nếu tôi quay sang cười Newton, vậy thì chỉ có thể nói tôi quá vô tri!

Chúng ta thường nói, Trung Quốc dùng 7% diện tích đất có thể trồng trọt để nuôi sống 20% người dân thế giới, nhưng chúng ta cần hỏi lại: Trung Quốc liệu có thể làm được việc đó không? Nói đơn giản, chính là sử dụng lượng lớn phân hóa học. Nếu không sử dụng phân hóa học, e là một nửa người Trung Quốc sẽ chết đói.

Công nghệ sản xuất phân đạm đến từ đâu? Hơn 100 năm trước, nhà khoa học người Đức Fritz Habe và kỹ sư Carl Bosch của công ty BASF đã phát minh ra, chứ không phải Trung Quốc phát minh ra. Năm 1972, sau chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Nixon, Trung Quốc và Mỹ đã có thương vụ làm hợp tác đầu tiên, chính là mua 13 giàn thiết bị sản xuất Ure quy mô lớn nhất, hiện đại nhất thế giới lúc bấy giờ, trong đó có 8 giàn máy là của công ty Kellogg.

Trải qua 50 năm, 100 năm nữa khi viết lại lịch sử phát minh trên thế giới, liệu Trung Quốc có thể có tên trong đó. Chỉ có tự do, thì mới làm tinh thần và sức sáng tạo của doanh nghiệp của người Trung Quốc mới phát huy hết khả năng, biến Trung Quốc trở thành điển hình về sáng tạo cái mới.

Do đó, đẩy mạnh và bảo vệ tự do là trách nhiệm của mỗi người Trung Quốc quan tâm tới vận mệnh của đất nước, và là sứ mệnh của người của trường Đại học Bắc Kinh! Không bảo vệ tự do, thì không xứng với xưng hiệu “người Bắc Đại”!

Nguồn: Trithucvn

https://phamnguyentruong.blogspot.com

(1) Ngày 1.7.2017,nhà kinh tế học TQ TRƯONG DUY NGHÊNH đã tham dự lễ tốt nghiệp của Viện nghiên cứu phát triển quốc gia thuộc Đại học Bắc Kinh. Trong buổi lễ, ông có bài phát biểu đại diện cho giáo viên với chủ đề “Tự do là một trách nhiệm”

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở “Tự Do Là Một Trách Nhiệm” (ST)

Nhà Tôi – sáng tác của Lê Phương Lan

NHÀ TÔI

434126406_3621287624855086_6809158270921524910_n

Mỗi khi sau những lần đi chơi xa khi về đến ngôi nhà của mình, lúc đó lòng tôi như muốn reo vui một cảm giác hân hoan được diễn tả bằng Anh ngữ “my home, sweet home” thật đúng với tâm trạng. Trong tiếng Anh, từ điển Webster định nghĩa hai danh từ để chỉ về “nhà” rất rõ nghĩa:

House: a building for human habitation, là một nơi cho con người cư ngụ.

Home: The social unit formed by a family living together, là một đơn vị xã hội hình thành bởi một gia đình chung sống với nhau.

Tương tự như thế, người Việt chúng ta khi nói về “nhà” thường để chỉ một nơi cư ngụ và khi muốn nói đến một đơn vị xã hội nơi chung sống với nhau thì từ ngữ “mái ấm” hay “ gia đình” nghe rất thân thương được dùng để diễn tả.

Vì thế tôi vẫn yêu thích từ ngữ “sổ gia đình“ của miền nam Việt Nam hơn hẳn “sổ hộ khẩu” như cách dùng hiện nay!

Lại tra từ điển để minh chứng sự yêu thích và tiếc thương về cách dùng từ ngữ “sổ gia đình” của tôi là có lý do thì trong sách Hán Việt Từ Điển của học giả Đào Duy Anh:

“Gia đình” với chữ “gia” làm gốc được định nghĩa là “nơi gia quyến đoàn tụ với nhau”.

“Hộ khẩu” với chữ “hộ” làm gốc được định nghĩa “căn nhà và số người ở”.

Điều này cho thấy danh từ “gia đình” cho ta cảm giác ấm cúng của một gia quyến đoàn tụ với nhau. “Hộ khẩu” chỉ là một đơn vị gia cư với con số vô tình! Với tôi trong danh từ “gia đình” chứa đựng cả một tình yêu thương được tỏa sáng như tạo một sức sống cho một nơi mà chỉ cần có cái mái và những bức tường bao quanh là thành một căn nhà!

Từ thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành vì bố tôi là một sĩ quan của quân lực VNCH nên chúng tôi di chuyển qua rất nhiều chỗ ở hầu như là ở khắp bốn vùng chiến thuật. Trong những căn nhà đó gia đình chúng tôi tuy không hoàn hảo nhưng anh em tôi luôn được bao bọc bởi tình yêu thương của bà ngoại và của bố mẹ.

Thế rồi những ngày của tháng Tư định mệnh! “Nhà Việt Nam, Nam, Bắc, Trung sáng trưng Á Đông, bốn nghìn năm đó văn hóa xây đắp bao kỳ công!” “Ngôi nhà Việt Nam” mà người dân miền Nam Việt Nam đã xây dựng với biết bao hoài bão cho tương lai; hàng triệu chiến sĩ VNCH đã hy sinh bảo vệ, đã mất từ ngày tháng đó!

Nước mất thì nhà tan! Những “chủ nhân mới” đã tràn vào miền Nam để toàn quyền ”quản lý” nhà đất: các cơ sở kinh doanh, cơ sở tôn giáo, nhà đất của người dân đã bị mất vào tay “nhà nước” qua đợt di tản, tiếp theo là đợt đánh tư sản để cướp nhà, người dân thành phố thì mất nhà vì bị ép buộc phải đi đến các vùng đất hoang, rừng rậm được gọi là các vùng “kinh tế mới”. Trong cơn bách hại đó thì một sự kiện mà tôi đã ghi nhận là “phép lạ” vì trong cùng một ngày tôi nhận được giấy phép cho tôi được đi dạy học trở lại để được ở lại thành phố và lá thư báo tin “nhà tôi” đang bị giam tại Khám Chí Hòa để được đi thăm nuôi anh theo định kỳ của trại giam.

Khi sự thương lượng giữa chính phủ Hoa Kỳ và CSVN đã đạt được kết quả là các sĩ quan, viên chức của VNCH được định cư tại Mỹ thì chúng tôi đã ra đi hầu như với hai bàn tay trắng vì ngôi nhà tại khu Ông Tạ đã phải “bán chui”, phải chia gần hết số tiền bán nhà cho đám cán bộ để được ra đi an toàn!

Với quyết tâm tạo dựng lại cuộc đời, gia đình chúng tôi đã được đoàn viên tại quê hương thứ hai để tạo dựng được những mái ấm gia đình cho hai chúng tôi và lần lượt cho các con sau này.

Trở lại với nỗi vui mừng hân hoan khi được về nơi cư ngụ thường ngày với những người thân yêu thì quả là không sai. Cho dù các cuộc đi chơi có hào hứng vui vẻ đến đâu, nơi được chọn để ở là khách sạn 5 sao đi nữa cũng không thể nào có được cái cảm giác thoải mái với đầy đủ những vật dụng cần thiết và tiện nghi cho cá nhân và gia đình cho bằng ngôi nhà mà mình vẫn hằng sinh hoạt hàng ngày.

Và hạnh phúc của tôi trong ngôi nhà này bây giờ là được sống trong tình yêu thương của các con, các cháu và của “nhà tôi”.

Tôi rất yêu thích danh từ “nhà tôi” mà người miền Bắc đã dùng để chỉ người bạn đời của mình, nghe nó tượng hình, gần gũi và thân thương làm sao! Nhưng rồi ngày nay từ này đã được thay bằng hai từ “ông xã, bà xã” nghe cũng ngộ nghĩnh và thân thương không kém!

Theo tôi thì cùng với tình yêu thương là yếu tố căn bản, cần thiết tạo nên “linh hồn” của một gia đình thì sự gọn gàng, ngăn nắp cũng giúp tạo nên một cảm giác thoải mái cho một nơi thật sự cần thiết cho nhu cầu sum họp trong các bữa cơm thân mật, trong những giờ phút nghỉ ngơi cho mọi thành viên trong gia đình. Đúng như thành ngữ ”nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”.

Trong căn nhà của mình thì tôi có được cái “may mắn” là “nhà tôi” là một người rất gọn gàng, ngăn nắp đến nỗi các con tôi không dám để các vật dụng của chúng một cách bừa bãi làm ngứa mắt bố. Lý do là vì một khi bố đã cất đi cho nó gọn thì đến khi cần đến với bộ nhớ ngày càng xuống cấp của bố, kết quả là sau một hồi nỗ lực tìm kiếm thì đây là câu trả lời “Bố còn không biết nó ở đâu nữa là chúng mày!”

Thế đấy, trong cái đơn vị là một nhân tố căn bản của xã hội này thì cái khó khăn nhất mà những người sống chung với nhau đều cần phải chấp nhận đó là sự khác biệt rất khó để sửa đổi trong mỗi cá nhân vì điều này đòi hỏi sự luyện tập, hy sinh buông bỏ “cái tôi” từng ngày trong đời sống.

Trong bài Phúc Âm của thánh Gioan, Chúa Giê Su đã dùng hình ảnh của hạt lúa mì để diễn tả sự hy sinh này:”Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình; nếu chết đi, nó sẽ sinh ra nhiều bông hạt”.

Khi sự hiểu biết của tôi nhiều hơn, sâu hơn thì lời nói của nhà bác học Albert Einstein thật thấm thía ”Cái tôi và sự hiểu biết tỉ lệ nghịch với nhau: Hiểu biết càng nhiều, cái tôi càng bé; hiểu biết càng ít, cái tôi càng to.”

Tuổi đời thêm chín chắn giúp cho tôi nghiền ngẫm “lời hay ý đẹp” tâm đắc cho việc “sống chung hòa bình”. Đó là “Con người cần ba năm để học “tiếng” nói. Nhưng lại cần cả đời để học “lời” nói”.

Qua kinh nghiệm sống, tôi nghiệm ra rằng không chỉ là một mình tôi chịu đựng những khác biệt trong đời sống hôn nhân vì rằng đã là khác biệt thì khi chung sống với nhau “nhà tôi” cũng phải “chết đi như hạt lúa mì” không khác gì tôi đâu!

Mùa chay năm nay, trong ngày chúng tôi đến lãnh bí tích hòa giải, không hẹn mà hai đứa cùng nhìn nhau mỉm cười khi kể ra rằng cách làm việc đền tội được vị linh mục chỉ định cho cả hai là “Thay đổi bản thân trong mùa chay!” Mùa chay đến nay đã gần qua rồi để gìn giữ cho ngọn lửa yêu thương không tắt đi trong mái ấm gia đình, chúng tôi chắc là cần gia hạn thêm cho thời gian canh tân, thay đổi bản thân cho đến …cuối cuộc đời ?! Điều này nói dễ mà làm không phải dễ đâu!

Bài viết này lẽ ra dừng lại ở đây thì cô em lại gửi cho bài viết “Vợ Hiền” của tác giả Tràm Cà Mau. trong đó xin phép được trích dẫn phần kết của tác giả:

“… Nhiều khi nằm bên nhau, tôi hỏi Mai: – Sao hơn mười mấy năm sống bên nhau, chưa bao giờ em làm cho anh buồn lòng, chưa bao giờ em làm cho anh phải nổi giận. Em có khi nào buồn giận anh không? Nàng nói: – Sách dạy cho em biết rằng, người cho thì được nhiều hạnh phúc hơn người nhận. Không cầu thì sẽ được, không đòi thì sẽ có. Biết vui với cái tương đối mà mình đang có, thì trở thành kẻ sung sướng nhất trong đời. Cho đi tình thương chân thành, thì được nhận lại bằng tình thương. Nhiều người đàn bà đòi hỏi ở chồng quá đáng, ngoài khả năng của chồng. Bao nhiêu cũng không thỏa mãn cả. Họ không nhìn thấy sự hy sinh của người khác, mà chỉ cố bươi móc lỗi lầm cỏn con của chồng để mà trách móc, giận hờn. Làm thế không có lợi gì cả, mà chỉ là cách phá hoại hạnh phúc gia đình hữu hiệu nhất..

Ngoài song thân ra, người tôi biết ơn nhiều nhất là vợ tôi. Ðời sống tôi có ý nghĩa hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn nhờ vợ khôn ngoan dịu dàng. Nhiều đêm thức giấc tôi nhẹ hôn lên mắt vợ, thầm so sánh tấm lòng hiền chân của vợ với trái tim của một vị nữ thánh. Phần nàng, thì luôn luôn: “Em chỉ muốn làm cái bóng nhỏ và âm thầm bên đời anh thôi”. Mai chưa hề đọc thánh kinh, nhưng nàng đã biết chọn chỗ ngồi thấp nhất để được nâng lên cao nhất trong lòng chồng con.”

Cuối cùng, xin kể thêm câu chuyện trong bài giảng của linh mục Nguyễn Thiết Thắng để làm phần kết thúc. Chuyện kể rằng trong một bài giảng tại một xứ đạo tại miền Bắc Việt Nam với đề tài liên quan đến tình yêu trong hôn nhân khi nghe cha nói rằng không có hôn nhân nào hoàn hảo mà không có đau khổ và mâu thuẫn thì có hai ông bà đều đã hơn 70 tuổi góp ý là hai vợ chồng ông bà vẫn có giận nhau có khi là cãi vã nhưng vẫn không quên làm dấu thánh giá cho nhau trước khi đi ngủ. Nghe vậy cha mới hỏi: “Thế khi hai cụ giận nhau thì làm sao để mà làm dấu cho nhau được?” Cụ ông trả lời: “Được chứ cha vì mặt thì quay đi nhưng vẫn với tay lại để làm dấu cho nhau được cha ạ!”

Tình yêu và đức tin của đôi vợ chồng già này đã được gìn giữ cho nhau bằng những việc làm rất đơn sơ mà đầy ắp nghĩa tình sâu đậm như thế đó!

Lê Phương Lan

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Nhà Tôi – sáng tác của Lê Phương Lan

Bắc 54 và Bắc 75 Khác nhau thế nào? (ST)

ĐỂ TRẢ LỜI MỘT CÂU HỎI
BẮC 54 VÀ BẮC 75 ?

hqdefault

Có lần mình đã gặp một anh người Bắc, nói năng nho nhả cũng thuộc dạng trí thức anh đã hỏi mình một câu như vầy :

Em người miền Nam sống ở Saigon từ nhỏ, anh hỏi thật em trả lời đúng sự thật với suy nghĩ của người Saigon nhé !

Tại sao cũng là người Bắc, nhưng Bắc 54 di cư vô miền Nam, tới giải phóng là 21 năm.

Anh vô miền Nam năm 75 đến giờ là 42 năm, gấp đôi dân 54.

Thế nhưng tại sao người SàiGòn lại coi Bắc 54 là một phần của họ gặp nhau tay bắt mặt mừng như ruột thịt, anh để ý riêng bản thân anh thôi nha. Có thân lắm có vui lắm, dân SàiGòn vẫn luôn mang một khoảng cách khi tiếp xúc với anh, nếu họ biết anh đến với Sài Gòn năm 75???

Trời, một câu hỏi khó cho thí sinh à nha !

Em trả lời thật, anh đừng giận em nói :

-Tách riêng 2 phần chính trị và văn hoá nghệ thuật ra đi ha!

Phần chính trị thật ra khi giải phóng vô em mới có gần 15 tuổi thôi về quan điểm thắng, thua em chưa đủ trình độ nhận xét,

Nhưng nếu nói về cuộc sống của thời trước và thời sau 75, khác nhau nhiều lắm : sướng khổ rỏ rệt. Má em chỉ là công chức nhỏ của tổng nha kiều lộ, bây giờ mấy anh gọi là cầu đường đó, nhưng hồi nhỏ em rất sướng, đi học toàn trường dòng, em không biết ngoài Bắc anh có không, chứ thời đó mà học nội trú là mắc lắm đó, nhà em không giàu, cậu đi lính Quốc Gia, dì và ông ngoại đều dân Kiều lộ, nhưng sống rất thanh thản, mặc dầu lúc đó chiến tranh tràn lan khắp nơi.

Thời đó người Bắc di cư vô Nam, thường sống từng vùng do chánh phủ chỉ định, rồi từ từ lan ra.

Người miền Nam học được người Hà Nội nhiều điều : Cần kiệm, lễ giáo, nếp sống thanh lịch quý phái và tri thức.

Người miền Bắc vô Nam học được của người Sài Gòn nói riêng và người miền Nam nói chung : Sự giản dị, chân thật, tốt bụng, phóng khoáng ; không câu nệ bắt bẻ hay khó khăn.

Và cả hai miền học được của miền Trung cái chịu thương chịu khó, cái đùm bọc tình đồng hương.

Cả ba miền hoà nhập với nhau, ảnh hưởng nhau lúc nào không hay. Hồi đó, em đi học gặp mấy đứa bạn Bắc Kỳ rốn vẫn hay chọc tụi nó là “Bắc kỳ con bỏ vô lớn kêu chít chít” mà tụi nó cũng không giận, chọc lại em : “mày Nam kỳ ga guộng bắt con cá gô bỏ dô gổ kêu gột gột”, rồi lại khoác tay nhau chơi bình thường. Trẻ con thì như vậy, người lớn gặp nhau ba miền chung bàn nhậu là dô đi anh hai mình, là tay bắt mặt mừng …

Em nói dài dòng để cho anh hiểu rõ hơn vì sao Bắc 54 trở thành người miền Nam.

Chưa kể đến cái tình nha anh! Tình đồng đội khi chiến đấu chung. Ngoài anh chắc gọi đồng chí, trong đây em nói quen tiếng dân Sài gòn xưa, lúc chiến tranh mà đi lính thì cũng phải đi chung, cả ba miền gặp nhau giữa lúc thập tử nhất sinh, thân nhau là chuyện bình thường.

Đó là lính, còn người dân giữa cái tan tác đau thương chạy loạn lạc, chết chóc hầu như từ mũi Cà Mau đến sông Bến Hải…. nơi nào không có. Từ đó, người ta thương yêu nhau và không ai nghĩ miền nào là miền nào. Người ta gọi đó là tình đồng bào, tình quân dân cá nước nói theo kiểu miền Nam của em.

Đó là nói hơi thiên về chính chị chính em đó nha !

Bây giờ, bàn hơi sâu văn hoá nghệ thuật thời đó nha !

Em nói với anh ngay từ đầu rồi nhé ! Lúc đó em chỉ mới 15 tuổi, làm sao đủ tư cách phê bình văn học. Em chỉ kể cho anh nghe theo cái hiểu biết nhỏ bé của em thôi.

Người miền Bắc 54 vô miền Nam đem theo được gì nhỉ ?

Người thì chắc cũng không có của cải gì nhiều rồi, đi giống như đi vượt biên mà có gì, sao anh cười, em nói thiệt mà !

Nhưng có một di sản khổng lồ mà người miền Bắc 54 đã đem cho miền Nam. Đó là văn hoá, nghệ thuật. Nếu xét kỹ, nhà văn thời đó của người Nam bộ vẫn ít hơn người Trung và Bắc. Những tác phẩm giá trị, từ dịch thuật đến thơ văn, hầu như tác giả người Hà Nội, người Huế, Đà Nẵng, Sài gòn, v.v… toàn những tác phẩm để đời.

Em xin lỗi, “giải phóng” hơn bốn chục năm năm rồi, nhưng nếu ai có hỏi em đã đọc được cuốn sách nào để lại ấn tượng trong em chưa….

Xin chào thua, giận em, em chịu, vì có đọc đâu mà nhớ !

Chả có gì cho em ấn tượng, chắc một phần do em dốt anh ạ, nên không hiểu nổi văn học thời này thôi.

Nói đến nghệ thuật cái này thì em thích ca thích hát nên hơi rành một chút. Chắc anh không ít thì nhiều cũng phải có nghe Duy Quang hay Sĩ Phú, Duy Trác, Tuấn Ngọc… những người con Hà Nội hát trước 75, nói về văn học có thể anh không biết chứ hát hò anh phải biết sơ thôi.

Vâng, Hà Nội 36 phố phường để lại cho người miền Nam nhiều ca khúc để đời của Phạm Duy, chắc anh không biết bài Viet Nam… Việt Nam, bài tình ca Con đường cái quan, của bác ấy .

Em nói nhiều về Pham Duy vi đúng là dân Hà Nội 45 đó anh !

Oh, anh biết nhiều về Phạm Duy, như vậy chắc anh cũng biết rõ những nghệ sĩ nổi tiếng trước 75, đến bây giờ vẫn ăn khách, những người ca sĩ mà anh biết không, cái thời ngăn sông cấm chợ, muốn được nghe phải thức canh đài BBC hay đài VOA, vừa nghe vừa khóc vì quá xúc động. Đó là lý do tại sao ca sĩ Hải ngoại khi về nước người ta đi đón râ`n trời, một cái vé có khi nữa tháng lương người ta vẫn cắn răng để nghe cho bằng được thần tượng của mình hát.

Đó là ca sĩ Hà Nội, còn trong Nam hay ngoài Huế cũng rất nhiều ca sĩ nổi tiếng, kiểu Chế Linh, Nhật Trường, Duy Khánh, v.v…

Em xin lỗi anh nhé, có thể ca sĩ ngày xưa người ta hát không cần phải là học trường lớp thanh nhạc như cái cô Thanh Lam gì ngoài Bắc của anh bây giờ đâu, nhưng vẫn đi vào lòng người nghe mãi không quên, còn cô ấy học cao quá diva diviec gì đó, nói thiệt anh đừng cười em lạc hậu với thời cuộc quá anh ạ, nhờ cái chuyện cổ chửi ca sĩ miền Nam thất học, dư luận ồn ào quá, em mới để ý, chứ thiệt tình bình thường em mà biết cô này .. em chết liền đó anh, chưa từng nghe giọng hát này bao giờ.

Thì đó, nhờ những tác phẩm giá trị của văn học nghệ thuật, những nhạc sĩ, ca sĩ, kịch sĩ đều có sự đóng góp của Huế, Sài gòn, Hà Nội.. đã đưa ba miền Nam-Trung-Bắc, gần nhau hơn, hoà quyện lại với nhau thành một.

Cám ơn anh chịu khó nghe em phân tích một cách dài dòng xoay quanh câu hỏi của anh.

Vì đây là lần đầu tiên em được nghe một câu hỏi rất thật của một người Bắc vào trong Nam … năm 1975 .Thế cho nên em cũng trả lời rất thật lý do vì sao Bắc 54 lại là dân miền Nam dầu chỉ mới sống với nhau có 21 năm.

Và dân Bắc 75, dầu sống trong Nam đến 42 năm, vẫn mãi mãi là …. người Bắc, chứ không thể nào là người Hà Nội của dân miền Nam xưa.

Với một ít kiến thức nhỏ nhoi, một ít kinh nghiệm sống từng trải qua những thăng trầm của đất nước.

Em xin các cô bác, anh chị đã, đang và sắp đọc những giòng tự sự này một lời xin lỗi nếu như em có viết sai một ít chi tiết nào đó, các bậc cao nhân, tiền bối làm ơn bỏ qua cho kẻ hậu bối này câu trả lời mơ hồ của em, chắc chưa đủ sức thuyết phục cho anh bạn miền Bắc của chúng ta hiểu rõ hơn… Nhưng sức người có hạn, em nói rồi – tầm hiểu biết của em hạn hẹp bao nhiêu đấy thôi.

Ánh Đào

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Bắc 54 và Bắc 75 Khác nhau thế nào? (ST)

Tin Buồn – Phân Ưu

NVH

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Tin Buồn – Phân Ưu

Ngủ Đò – tác giả Trần Kim Đoàn

Ngủ Đò.

Trần Kim Đoàn

Năm 1971, trong một dịp vào Sài Gòn chấm thi tại trường Gia Long, tôi có dịp quen biết với một cặp vợ chồng người Nam, quê ở Cần Thơ. Vì biết là người Huế, lại đang dạy học ở vùng giới tuyến Đông Hà-Quảng Trị, nên anh chị đã dành cho tôi mối cảm tình đặc biệt của người lính văn phòng dành cho người lính đồn xa. Dù chưa ra Huế lần nào nhưng sự hiểu biết của cặp vợ chồng nầy về Huế khá sâu sắc và tỉ mỉ như cách nhìn của một nhà khảo cổ nhìn lại thời xa xưa qua sách vở. Một trong những mong ước của anh chị là một ngày nào đó được ra thăm Huế.

Tôi mời anh chị mùa Hè năm sau ra Huế ở lại với gia đình tôi chơi để làm một chuyến du lịch vùng đất có nhiều vui buồn đầy huyền thoại nầy.

Hue-Citadel-is-glorious-architectural-work-of-VietnamSau hơn một tuần chu du hết các thắng cảnh, lăng tẩm, chùa chiền, núi rừng, sông biển của Huế, hai ngày trước khi rời Huế về lại Cần Thơ, anh chồng kéo riêng tôi ra quán cà phê, nhìn trước nhìn sau để yên chí là không có tai vách mạch rừng rồi mới trầm giọng nói nhỏ vào tai tôi:

– Mình muốn cậu cho mình biết cái “dzụ” đó.

Tôi nhớn nhác chưa rõ chuyện gì, thì thào hỏi lại:

– Cái “dzụ” gì vậy anh?

Anh trả lời hơi lắp bắp:

– Thì, thì… cái “dzụ”… ngủ đò ấy mà!

– Tôi vỗ đùi cười ngặt nghẽo:

– Chuyện dễ ợt nằm trong lòng bàn tay, muốn lúc nào cũng đuợc mà anh làm tôi hết hồn.

Anh đỏ mặt nói như phân bua:

– Thì tụi mình là nhà giáo với nhau, mình sợ mang tiếng rồi thì khó lên lớp lắm. Bởi vậy mình rất tò mò muốn biết “ngủ đò” nó như thế nào, nhưng lại rất ngại làm phiền cậu.

Vì nể bạn, tôi trả lời hăng tiết vịt cho có vẻ mình là dân lịch lãm ở quê hương mình, nhưng thật sự trong bụng cũng cảm thấy hơi “ớn lạnh” khi nghĩ tới chuyện ngủ đò.

OIP (3)

Hàng ngày tôi vẫn đi qua con đường Hàng Bè, có tên Huỳnh Thúc Kháng, nhưng ít khi dám ngó thẳng xuống những dãy đò đậu san sát dưới sông. Nhiều lần đi về khuya qua con đường Hàng Bè nầy, thường khi tôi cố giả câm giả điếc trước những lần các bà mối lái lôi kéo và mời gọi “Đò cậu !?” trên bến nước Tầm Dương canh khuya đưa khách nầy. Cái xứ Huế nhỏ bé “trong nhà chưa rõ, ngoài ngõ đã hay” lại mang nghiệp dĩ làm nhà mô phạm mà được gắn nhãn hiệu “Thầy nớ ngủ đò” thì sự nghiệp quân sư phụ theo chân đức Khổng Tử sẽ theo đò dọc mà trôi xuôi về biển.

Sau khi nói cứng với anh bạn ở quán cà phê, tôi bỗng thấy lo cồn cào ruột gan. Việc đầu tiên là phóng xe một mình xuống Bao Vinh, tìm người bạn thân lớn tuổi có biệt danh nghe như hiệp khách hành là Phó Biên Thùy để vấn kế. Anh nổi tiếng một thời ngang dọc trong giới ăn chơi biết trọng nghĩa khinh tài ở Huế. Nghe hết nỗi lòng thao thức của tôi, lại đến lượt anh cười dòn tan. Tôi vái thầm là nụ cười dễ dãi của Thùy không phải là nụ cười xã giao thiếu thực tế chiến trường của tôi. Thùy hỏi một câu quá “hiện đại” làm tôi hơi ngỡ ngàng:

– Rứa bạn cậu muốn ngủ đò mà “ngủ chay” hay “ngủ mặn”?

Tôi đang còn quờ quạng thì Thùy giải thích:

– Ngủ đò chay là thuê đò du lịch trên sông Hương để sinh hoạt bạn bè, văn nghệ, văn gừng với nhau cho vui. Còn ngủ đò mặn cũng là giong đò trên sông Hương, nhưng lại sinh họat ong bướm với những nàng Kiều sông Hương.

Tôi hỏi đùa:

– Nếu người ta thích cả “vào chay ra mặn” có được không?

Thùy trả lời thật tình:

– Trường hợp tất cả khách đi đò đều là đàn ông thì chẳng có chi trở ngại, ai thích mục nào làm mục đó, nhưng nếu có phụ nữ thì bắt buộc phải ngủ chay.

Tôi liền cậy Thùy làm quân sư trong biến cố ngủ đò tổ chức cho người bạn. Theo sự cố vấn của Thùy, tôi về nhà và mời cả hai vợ chồng người bạn ra nói chuyện.

Khi tôi mở lời đề nghị mời cả hai vợ chồng người bạn đi ngủ đò, anh chồng mặt tái xanh không biết vì sợ hay vì giận. Anh nhìn tôi một cách nghiêm khắc nửa như hối hận, nửa như trách móc, hỏi bằng một gịọng rất xa lạ và lạnh lùng:

– Xin lỗi anh, anh cho chúng tôi là hạng người nào…?

Chị vợ mím môi, vòng tay trước ngực, mắt trống không nhìn bất động vào một cõi xa xăm nào đó để biểu lộ sự thất vọng vì bị xúc phạm.

Tôi hơi lúng túng vì sự hiểu lầm có vẻ quá nghiêm trọng thì Thùy đã xuề xòa, cái xuề xòa của một tay từng trãi với đời đã làm cho không khí bớt ngột ngạt. Thùy đã dem hình ảnh những cuộc du thuyền rồng của giới vua quan và các sứ giả ngoại quốc trên sông Hương ngày xưa làm vũ khí dẫn giải. Lịch sử ngủ đò trên sông Hương bắt nguồn từ thú chơi tao nhã của hàng mặc khách tao nhân. Đò chứa đầy trăng và chở đầy hương hoa của thơ và nhạc. Nếu có chăng những chén rượu nồng và những trao gởi đầu mày cuối mắt thì cũng chỉ là những sương khói nhẹ nhàng kiểu tài tử giai nhân. Nước sông Hương, do đó, còn được gọi là nguồn “Tiêu Kim Thủy” – ngàn vàng chuốc môt trận cười. Nhưng rồi mỗi nước non đều có một “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”. Chuyện ngủ đò trên sông Sông Hưong cũng thế, cũng có một thời tuổi trẻ và một thời tuổi già; một thời để yêu và một thời để chết. Sông Hương đã trút áo hào hoa để sống còn qua những cơn tai biến của lịch sử, để hòa điệu sống giữa chợ đời đầy cát bụi. Cái thanh và cái thô của Huế bao giờ cũng có sẵn. Thanh hay thô là do kẻ đi tìm…

Thùy đã mô tả hết cái thanh và cái tục trong chuyện ngủ đò để thuyết phục cặp vợ chồng bạn tôi vui vẻ chấp nhận lời mời đi “ngủ đò” ngay chiều hôm đó.

Chiếc đò khách có mui, lòng rộng hơn hai thước cặp bến Thừa Phủ vào buổi chiều nắng sắp tắt. Thùy đã tế nhị mời thêm hai cặp vợ chồng yêu thích văn nghệ cùng đi và anh cũng đã khéo léo cho đò cặp vào bến Thừa Phủ thay vì bến Gia Hội hay Phu Văn Lâu vốn là những điểm nóng của khách “giang hồ ngủ mặn” để khỏi bị nhòm ngó. Cặp vợ chồng bạn tôi tỏ vẻ căng thẳng và hồi hộp thấy rõ với những giòng mồ hôi chảy dài trên má. Cả hai e dè bước xuống thuyền như một sự phó mặc cho số phận an bài.

Đến khi thuyền ra giữa sông như cánh chim bằng đã cỡi mây vùng vẫy ra ngoài bốn bể thì cái cảm giác “ngủ đò” mới bắt đầu lắng xuống. Giữa lòng sông chiều nghe sóng vỗ mạn thuyền róc rách với sức đẩy của gió Nồm từ Thuận An lên tự nhiên cái cảm giác trần tục từ từ nhường lại cho sự thanh khiết và lắng đọng trong mỗi con người. Thuyền hướng về phía cầu Bạch Hổ. Nhìn phía lái, o lái đò tóc lộng gió chiều che nghiêng khuôn mặt trông như một người mẩu làm phông cho cầu Trường Tiền. Một phần nhỏ cầu Trường Tiền còn hoe nắng giống chiếc lược ngà cài trên mái tóc sông Hương. Cầu Bạch Hổ thô và đen sậm có vẻ như hiện thân của sự thách đố với nắng gió và thời gian. Bên nầy là Thương Bạc, Phu Văn Lâu với cột cờ Thành Nội sừng sững không biết uốn cong mình trước những cuồng phong của lịch sử nên đã mang đầy mình những vết tích tang thương. Bên kia là bia Quốc Học-Đồng Khánh và con đường áo trắng ngây ngất biết bao nhiêu kỷ niệm học trò đầy tiếng cười và tiếng thút thít dấu giữa khăn mù soa thêu hoa tím của gặp gỡ và chia xa thời tuổi dại.

>

> Cặp vợ chồng miền Nam ngồi sát vai nhau cho khỏi lạnh. Ngồi cạnh mũi thuyền, cả hai lặng im, mở to mắt, căng buồng phổi để tận hưởng buổi chiều trên sông Hương. Tôi thấy Thùy nhìn họ, không nói, nháy mắt mỉm cười. Cặp vợ chồng nhìn lại với ánh mắt trẻ thơ mà trang trọng, tôi nghe cả hai cùng mấp máy: “Cám ơn anh!”.

Chiếc đò bềnh bồng nương gió chiều lướt êm trên giòng sông Hương đang đổi từ màu xanh lam buổi chiều sang màu tím nhạt hoàng hôn và màu vàng lụa dưới ánh trăng con gái e ấp bên kia sông. Hai bên bờ, nhà cửa chìm khuất sau những bức tường cây giờ đã đổi sang màu đen thăm thẳm huyền bí. Đọt dừa, đọt cau và tàng cây cao vút vẽ hoa văn cho nền trời bàng bạc khói sương. Trăng dát vàng trên sóng nước và kết ngọc cả giòng sông. Khi thuyền đến nhánh sông chia ba gần chùa Thiên Mụ thì sông nước và làng mạc, ruộng đồng đã tắm ngập cả trăng. Khói sương, cây lá, lưng sóng và tóc mây đều choáng ngợp ánh trăng vàng lung linh huyền ảo

R (6)

Giữa thanh vắng vô cùng con người bỗng cảm thấy cái tôi của mình tan loãng để hòa vào cái “đại ngã” của thiên nhiên. Mọi người trong đò hình như đang quên chiếc đò và giòng sông để nói với nhau thật nhiều trong thinh lặng cho đến khi người chủ đò từ đằng lái bước tới, nói với khách bằng ngôn ngữ hiện thực của con người:

-Xin quý khách cho biết là muốn neo đò ở đây hay chèo lên ngã điện Hòn Chén.

Thùy hỏi ý kiến chung và quyết định hướng đò lên ngã thượng nguồn sông Hương. Đò chèo quanh như lưu luyến vùng sông nước xanh đen mượt trước chùa Thiên Mụ như có một chút gì tiếc nuối hương xưa rồi quay mũi hướng về phía núi Bãng Lãng. Anh bạn người Nam hỏi Thùy:
chua-thien-mu

– Tôi đọc sử nghe nói Chùa Thiên Mụ là do Nguyễn Hoàng – mà người đương thời gọi là chúa Tiên, cho khởi công xây dựng từ năm 1601 phải không anh? Được đứng trước một di tích lịch sử gần 4 thế kỷ mà vẫn còn nguyên vẹn như thế kia, tôi cảm thấy xúc động và ngưỡng phục người xưa vô cùng.

Thùy giải thích thêm:

– Theo tương truyền thì khi xưa, ban đêm có người trông thấy một bà lão mặc áo đỏ quần xanh ngồi trên gò Hà Khê, tức là vùng đất cao của chùa Thiên Mụ ngay trước mặt chúng ta đây, nói rằng:”Rồi đây sẽ có một vị chúa dân tới nơi này để dựng chùa, đặng tụ linh khí và củng cố long mạch”. Nói xong bà lão biến mất nên dân chúng bèn gọi gò Hà Khê là núi Thiên Mụ. Khi chúa Tiên đặt chân tới gò Hà Khê thấy cảnh trí hùng vĩ, trước có sông, sau có hồ, xa xa có núi. Cảm kích trước cảnh non sông cẩm tú, trước khi quyết định dời đô về đất Thuận Hóa, chúa cho xây một ngôi chùa trên gò Hà Khê lấy tên là Thiên Mụ Tự, đó là chùa Thiên Mụ ngày nay.

Người chủ đò cho biết nếu chỉ chèo tay mà không dùng động cơ gắn sẵn trên đò thì ít nhất cũng mất hai giờ nữa mới đến nhánh sông điện Hòn Chén. Thùy đề nghị là lúc về sẽ dùng đến máy, nhưng vòng lên chỉ nên chèo tay. Rốt cuộc dư vang của sóng nước sông đêm vẫn nghe vỗ vào mạn thuyền xao xác và tiếng chèo khua nước vẫn nhè nhẹ chẻ nước để thuyền đi trong đêm trăng. Một người bạn của Thùy bắt đầu thổi sáo. Tiếng sáo dìu dặt nương theo hòa âm của đất trời đủ sức lay động lòng người. Những người trong đò bắt đầu ngâm thơ và hát những bài tình ca hay nhất của mình. Cặp vợ chồng miền Nam cùng hát dân ca điệu lý con sáo, rồi lý cây bông như thơ của Kim Tuấn:

Em nhớ chàng em hát lý cây bông
Như con sông con nước ròng con nước nổi
Em thương anh và nhớ anh quá đỗi…
Như cây lục bình quấn quít giòng sông…
Anh thương em sao anh “hổng”tới
Để em buồn em hát lý cây bông…

Cô lái đò chừng như cũng hòa vui với điệu hát câu hò ngồ ngộ nhưng đầy cảm xúc của khách bỗng cất tiếng hò dìu dặt theo nhịp với mái chèo. Tiêng hát cất lên từ sau lái mang âm vang thanh thoát của người lĩnh xướng:

Ơ hơ…ơ ơ cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
(Chớ) em qua không kịp (mà) tội lắm anh ơi à…ớ… ơ…ờ
Ơ hơ…ơ ơ… (Chơ) thà rằng không biết thì thôi
(Chớ) biết rồi mỗi đứa (ư…à…) ơ hờ…hớ mà… mỗi nơi ớ hơ a à… cũng
(ứ… a…) buồn…!

Tiếng hò vút cao, lững lờ rơi dần xuống thấp, rồi im bặt… Cũng buồn! Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi cũng buồn. Có lẽ nguồn tình cảm miên man rất lãng mạn kiểu Huế nằm trong tiếng “cũng”. Cái “cũng… buồn” rất e dè nhưng cũng rất nũng nịu thâm cung của cô gái Huế có nghĩa là níu kéo, là sẽ tương tư, là hào phóng một cách “tình cho đi ai lấy lại bao giờ”. Tất cả những người khách có mặt trong đò đều khẩn khoản yêu cầu cô lái đò hò thêm bài nữa nhưng vẫn hoàn toàn im lặng, cái im lặng bất thường của một tâm hồn sôi nổi thường có vẻ ghê ghê như cây cối mới theo gió vật vờ bỗng đứng yên giữa vùng tâm bão. Cô lái chỉ tay về mé sông bên kia với một vùng cây cối thâm u, đen kịt trong đêm. Giọng cô nói như rì rào với gió : “Điện Hòn Chèn thờ Bà Chúa đó. Ngài thiêng lắm. Ai hò hay hát giỏi, Ngài ưng ý, ‘bắt lính’ âm binh rồi thì hết đường chạy chữa, chỉ có nước đem chôn thôi”. Nghe giọng nói nghiêm trang như con chiên ngoan đạo của cô lái, khách trên đò cũng cảm thấy phảng phất một chút sương mờ “ớn lạnh” nên chưa ai tiếp tục cuộc chơi “để em buồn em hát lý cây bông”. Cặp vợ chồng Nam Bộ xích lại gần nhau thêm chút nữa chừng như để che chở cho nhau mà trốn lính âm binh… Bỗng Phó Biên Thùy cất tiếng cười dòn tan như cốm bắp An Thuận, tiếng cười không chờ đợi và đúng lúc có mãnh lực an ủi chúng sinh trên đò như nhà pháp sư trừ ma ếm quỷ. Thùy chỉ tay về phía bờ sông bên kia, nơi có lùm cây cao nhô lên, nổi bật giữa lằn chân trời cây đen thẩm, giải thích:

– Đó là Điện Hòn Chén, tên chữ là Ngọc Trản (có nghĩa là chén ngọc). Đây là đền thờ Nữ thần Thiên Y A Na, vốn là một nữ thần Chàm. Theo Đào Thái Hanh trong Bulletin des amis du vieux Hué; xuất bản năm 1914 mà thời đi học, tôi đọc lóm được của Ba tôi thì Thiên Y giáng trần qua bóng dáng của một thiếu nữ đẹp huyền diệu và vào đời qua một câu chuyện tình thần tiên vương giả. Rồi cũng như những câu chuyện tình buồn của Huế, nữ thần cũng ra đi trong nước mắt. Nhưng cái mê hoặc của trần gian đau khổ nầy nó lạ lắm. Nó vẫn còn mãi níu kéo nữ thần vương vân với cuộc đời để ban bố bao nhiêu là phép lạ cho con người. Vì vậy, trong niên hiệu đầu, vua Gia Long ban cho nữ thần chức tước “Thần tối cao và ơn đức vô biên, ban phước lành khắp mọi nơi đầy linh hiển” .

Thế nhưng, khoảng hai năm trước, tôi có dịp tham gia vào đoàn rước lễ của Thiên Tiên Thánh Giáo Huế, hành hương bằng thuyền trên sông Hương từ Điện Hòn Chén về Bãi Dâu với đoàn thuyền có đủ cờ quạt, lọng tàn, lễ nghi rực rỡ đầy màu sắc thì lại được nghe một vị chức sắc cho biết đây là nơi thờ Thánh mẫu Liễu Hạnh. Nguyên bà là con gái thứ của Ngọc Hoàng Thượng Đế, giáng trần vào rằm tháng Tám năm 1557 đời Mạc Phúc nguyên tại Vụ Bản, tên Giáng Tiên. Người tiên giáng phàm nhưng vẫn không thoát khỏi nợ tình với Trần Đào Lang. Và rồi cũng như Thánh nữ Thiên Y A Na, Thánh Mẫu Liễu Hạnh được về lại cõi trời năm hai mươi mốt tuổi, nhưng vẫn yêu cảnh trần gian nên đành xin Ngọc Hoàng trở lại… với nhiều phép lạ giúp dân lành nên đã trở thành một trong Tứ Bất Tử của dân tộc Việt Nam: Phù Đổng, Chữ Đồng Tử, Tản Viên Sơn Thánh và Liễu Hạnh. Bà Chúa Liễu Hạnh đã được sùng kính tôn thờ như một tín ngưỡng dân gian lan rộng khắp nơi, từ Phủ Giày Nam Định, tới chùa Thiên Minh Lạng Sơn, vào đền Sòng Thanh Hóa, ra Tây Hồ Thăng Long, vào Sóc Hương Nghệ An… trước khi giáng phàm chỉ đường cho chúa Nguyễn dựng nghiệp ở Đàng Trong và xây dựng dinh cơ ở Huế. Vua nhà Nguyễn đã sắc phong cho bà chúa là “Thượng Đẳng Tối Linh Thần”.

Theo nguồn tin dân gian truyền khẩu tại Huế thì bà chúa Điện Hòn Chén hết sức linh hiển. Đã có rất nhiều người buôn bán xuôi ngược trên sông Hương đã bị “bắt lính” vì có tài hát hò. Một số khác bị bà chúa “vật chết tươi” vì có thái độ bất kính khi đò chèo ngang qua Điện Hòn Chén. Năm Tự Đức thứ 15, nhà vua cảm thương bá tánh vô tội bị chết oan nên đã đích thân lên Điện Hòn Chén đeo chuỗi hột bồ đề vào cổ bức tượng của bà chúa Liễu Hạnh và khuyên bà chúa hãy tu hành. Từ đó, bà chúa không còn linh hiển như xưa nữa.

Người kể chuyện im lặng, rồi trầm giọng đọc thơ với một chút cười buồn:

Mắt nữ thánh cũng sầu xanh soi bóng
Hương Giang ơi! Sao sóng lục vô chừng.

Phó Biên Thùy lại cất cao giọng nói như đọc sớ trên sông:

– Xin van vái bà Chúa, nếu tối nay bà bắt lính, Thùy tôi xin tình nguyện đi ngay, đừng bắt ai khác tội ngiệp. Thùy nầy vốn ca xướng không hay nhưng được cái độc thân, vui tính. “Dương binh” được xếp loại hai, nếu vô “âm binh” xin bà xếp cho loại ba, lọai bốn chi cũng được…!

Hình như lên tinh thần vì vui lây cái tinh thần hài hước của Thùy hay vì đã có người tình nguyện “chết” thay cho mình nên từ chủ đến khách trên đò đều lấy lại được cái vui hồn nhiên “giã gạo dưới trăng” tưởng như đã bị thần linh ném giữa giòng sông.

Cái đẹp của vùng thượng nguồn sông Hương trong đêm là vẻ đẹp huyền bí của Nghìn Lẻ Một Đêm vì nó mênh mông và êm ả quá, nhưng trong từng giọt sương, từng mảnh trăng tan trên mặt sóng, từng tiếng vỗ cánh của bầy vạc ăn đêm và tiếng xao xác của lau lách đều mang ít nhiều huyền thoại của Cố Đô với dư vang của những dấu oai linh hiển hách một thời vang bóng.

Chị bạn người Nam bỗng thở mạnh, hít thật sâu và reo lên như vừa khám pha ra một điều gì mới lạ:

– Thấy không kìa! Tôi nghe như vừa có một mùi thơm thoang thoảng trầm hương đâu đây. Tôi đọc sách nghe kể là sông Hương có tên như vậy vì thường có mùi thơm trên sông…

Có tiếng của anh bạn thổi sáo nói vọng ra từ phía trong mui đò:

– Tôi đang thưởng thức mùi thơm đó chị ơi, nhưng rất tiếc là mùi thơm của Seventy Nine và Half and Half trộn lại từ trong chiếc “píp” của tôi.

Chị bạn tiếc rẻ:

-Vậy thì lời đồn sông Hương có mùi thơm là bịa đặt sao?

Thùy lên tiếng:

– Tôi cũng được nghe mấy cụ xưa kể rằng, xưa kia hai bên bờ sông Hương có mọc một giống cỏ gọi là “Thạch Xương Bồ”, còn có tên gọi khác là “Ngoại Xương Bồ” (Acorus Gramineus). Các nhà đông y coi Thạch Xương Bồ có tác dụng chữa bệnh như vị thuốc trường sinh. Hoa và củ có mùi thơm đặc biệt, về mùa xuân phấn hoa bay thơm lừng khắp cả mặt sông nên mới có tên là sông Hương.

Chị bạn người Nam lại thắc mắc:

– Anh có bao giờ nghe ai diễn tả lại cái “mùi thơm đặc biệt” của Thạch Xương Bồ nó thơm nồng, ngọt dịu, đam mê, giống như một mùi hoa nào đó mà mình đã biết không?

Thùy trả lời hóm hỉnh:

– Chị ạ, tôi lớn từng này tuổi đầu rồi mà vẫn còn độc thân là vì hương sắc của Thạch Xương Bồ đó chị! Hồi còn sinh viên, tôi ở gần nhà ông thầy Tàu. Ông thường khoe là trong ba cô con gái của ông, cô út là đại quý tử vì phấn má có mùi hương Thạch Xương Bồ. Tôi đã bao phen cố làm một chàng Trọng Thủy Việt Nam để cố “ngửi” mùi Thạch Xương Bồ trên má cô út Mỵ Châu Tàu lai coi thử cái “đọat hồn hương” đó nó ghê gớm tới mức nào nhưng thất bại, có lẽ vì ông già đã hiểu quá thâm thúy cái hệ lụy “Nam Quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt nên đã thẳng tay làm cho chúng tôi xẻ nghé tan đàn.

Có tiếng anh chàng thổi sáo xen vào:

– Các vị nầy răng mà rắc rối dữ rứa? Thì cứ tạm cho mùi hương Thạch Xương Bồ nó cũng thơm thơm ngọt ngào giống thuốc Seventy- Nine và Half and Half của tôi đang hút đây nầy thì có chết ai đâu, bảo đảm sẽ không có ai chống đối hay kiện tụng chi mô mà sợ.

Đò rời vùng Thiên Mụ, xuôi về mạn Kim Long. Một giọng ngâm thơ nào đó, không hay nhưng đầy cảm xúc, cất lên:

Kim Long có gái mỹ miều,
Trẩm thương, trẩm nhớ, trẩm liều, trẩm đi>

Rồi cũng chính ngưòi ngâm bình luận:

– Trời đất! Làm như gái Kim Long toàn là tiên nga giáng thế không bằng. Xưa vua mê người đẹp, vua liều vua đi là vì bị mấy ông quan lớn gài bẫy. Những vị quan lớn trong triều phần đông ở miệt Kim Long cho gần cung đình. Ông nào cũng nuôi mộng con mình lên làm hoàng hậu nên lắm ông quan đã khôn khéo đóng kịch cho con gái cưng của mình mặc áo lụa hồng, choàng khăn nhiễu tím, giặt áo trên sông rồi thỉnh hoàng thượng lên nguồn dạo mát. Vua đã ê chề với các cô cung nữ trong cung quá rụt rè, run rẩy, sợ hãi trước long nhan nên mình cứng như cây củi. Nay ra ngoại thành nhìn trộm được giai nhân má thắm lưng ong đang lả lơi để cho gió hôn trên má, nắng cắn trên vai, nước đầm trên yếm… Thế là vua tương tư. Vua cải trang vi hành đi thăm bá tánh. Vua thêm một lần biết yêu. Cung đình thêm một hoàng hậu…

Chuyện dân gian kể rằng, vua Thành Thái cải trang làm người dân thường, lặng lẽ lên Kim Long đi tìm giai nhân mà không gặp vì con gái Kim Long thường chuyên nghề thủ công ở chỗ im mát nên nõn nà và đẹp nhưng ít khi ra ngoài. Vua thất vọng ngoắc một chiếc đò trên bến sông Hương để thuê chèo xuôi về lại hoàng thành. Thuyền cặp bến rước khách, từ trong khoang thuyền, vua nhìn ra sau lái thấy cô chèo đò đang độ tuổi xuân căng phồng sức sống, với manh áo cũ vá vai, với môi thắm má hồng và tóc mây vờn bay theo gió. Cô gái uyển chuyển theo mái chèo với vẻ đẹp tự nhiên làm vua rung động. Vua lại gần hỏi với:

-Nì, o nớ! Rứa chớ có chồng con chi chưa?

Cô gái che miệng cười duyên, đáp vọng lại:

-Tui nghèo nàn xấu xí có ai mà ưa!

Câu nói thủ phận, chơn chất càng làm cho nhà vua cảm thấy cô gái càng đáng yêu hơn. Vua Thành Thái bước tới giữ tay chèo cô lái lại, bắn tiếng:

– Tui biết có đám ni khá lắm, để tui làm mối cho o. Chừ tui hỏi thiệt rứa chớ o có ưng lấy vua không cái đã?

Cô gái vừa thẹn thùa, vừa sợ hãi, nhớn nhác nhìn quanh, thì thầm nói với người khách lạ:

-Đừng nói bậy mà họ chém đầu chừ!

Nhà vua đặt tay lên cùng mái chèo với cô gái, nói như reo vui:

-Thiệt mà! O mà nói “ưng” một tiếng là được lấy vua liền!

Trong khi cô gái vẫn thẹn thùng thì có một cụ lớn tuổi cùng đi trong đò tham gia vào cuộc vui, lên tiếng:

– O nớ! Có mất chi mô mà lo. O cứ nói “ưng” một tiếng thử coi rồi để tui làm chứng cho.

Cô gái chèo đò Kim Long đánh bạo, nhìn ông khách nói nhanh:

– Ưng.

Vua Thành Thái thú vị dành lấy cán chèo trên tay cô gái:

-Rứa thì ái phi ngồi nghỉ để trẩm chèo đưa về cung nghe.

Sau duyên kỳ ngộ đó, cô lái đò áo vá vai đã trở thành một vương phi được nhà vua sủng ái. (Theo Bảo Hiển – Chuyện Các Bà Trong Cung Nguyễn)

Ngày vui thường qua mau và cuộc vui nào cũng có lúc tàn. Đò trăng của chúng tôi rồi cuối cùng cũng đành phải chia tay với nguồn nước trên của sông Hương để trở về bến cũ vì đã quá nửa đêm. Tráo về, người lái thuyền đã đưa khách nhàn du trở lại với thực tại bằng cách gác mái chèo và nổ máy Yanmar F.10 gắn trên đò với tiếng nổ phành phạch rất phàm tục như múa lân đánh trống bể.

Khi đò về đến Phu Văn Lâu, đò không được chạy máy mà phải chèo trở lại. Thoát khỏi mùi khét, âm thanh và sức đẩy của máy dầu cặn, trăng lại về trên sông và sóng lại vỗ mơn man vào mạn thuyền. Thuyền tạm dừng lại trước bến Văn Lâu, anh bạn người Nam hỏi Thùy:

– Đây có tên là “Phú Vân Lâu”, có lẽ bởi vì nơi đây thường có nhiều mây lắm phải không anh?

Thùy giải thích với nét cười thích thú:

– Hay! Anh đã sáng tạo một ý nghĩa mới cho một tên gọi sai do thói quen của quần chúng. Thật ra Phu Văn Lâu mới là tên gọi đúng của nơi nầy. Ngày xưa cái lầu nầy là trung tâm thông tin của triều đình với dân chúng. Những văn kiện quan trọng của nhà vua và triều đình được niêm yết ở lầu nầy. Phu Văn Lâu có nghĩa là “lầu phô bày văn kiện” (Phu: Phô bày; Văn: Giấy tờ văn kiện; Lâu: Lầu). Anh nhìn kỹ vào đằng trước của lầu nầy sẽ thấy hai tấm bia có khắc chữ: Khuynh cái – Hạ mã (Nghiêng lọng- Xuống ngựa). Bất cứ ai đi ngang qua đây đều phải nghiêng lọng đi đầu trần và xuống ngựa đi bộ để tỏ lòng tôn kính nhà vua. Từ Văn Lâu nhìn ra sông Hương có Nghinh Lương Đình, là nhà hóng mát của vua. Đó là cái nhà cuối cùng tiếp giáp với bến nước của sông Hương trong khu vực cột cờ. Đây cũng là nơi thường vang vọng những tiếng hò quốc kêu đau thương sau ngày vua Duy Tân, nhóm Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Thanh Tài đứng lên mưu đồ cuộc khởi nghĩa chống Pháp nhưng thất bại vì nội phản để đến nỗi vua bị đày, tướng bị xử trảm tại An Hòa:

Trước bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông… Thuyền ai thấp thoáng bên sông, nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.

Nghe Thùy giải thích, ý nghĩ của những người trên đò như đang lãng đãng trôi về thời quá khứ. Chị bạn người Nam chỉ tay về phía cột cờ sừng sững làm bối cảnh chính cho cả vùng Phu Văn Lâu:

– Cột cờ nầy hình như đã treo cờ vàng ba sọc đỏ từ thời chính phủ Trần Trọng Kim, rồi cờ đỏ sao vàng của Việt Minh khi Trần Huy Liệu nhận ấn tín từ tay vua Bảo Đại thoái vị trên lầu Ngọ Môn năm 1945. Không biết lần đầu tiên lá quốc kỳ được treo lên nơi đây là loại cờ nào và trông giống ra sao?

Mọi cặp mắt lại hướng về Thùy, viên thuyền trưởng kiêm hướng dẫn viên bất đắc dĩ. Thùy trầm ngâm rồi dè dặt lên tiếng:

– Tôi có một ông đời sơ, nghe đâu là một trong những tác giả bình dân của bài vè lịch sử nổi tiếng “Thất Thủ Kinh Đô”, có kể lại rằng Cột Cờ Thành Nội xây cao 80 thước, ngang với đỉnh núi Ngự Bình. Quốc kỳ thời nhà Nguyễn là cờ ngũ hành, thường được treo trong các dịp Tết, lễ lớn của đất nước và triều đình, kèm theo các sắc cờ khánh hỷ đuôi nheo.

Đò lại tiếp tục di chuyển về phía cầu Trường Tiền. Một nhịp cầu đã gãy trong biến cố Mậu Thân nằm thương tích, lạnh lẽo dưới trăng như một vết chém ngang lưng đối với khách ngã nón trông cầu và trông tội nghiệp như vết sẹo ân oán vô tình trên khuôn mặt trái xoan nuột nà của cô nữ sinh Đồng Khánh.

Người bạn miền Nam thắc mắc:

– Lúc nãy cô lái đò có hò “cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp, em qua không kịp tội lắm anh ơi!… ” làm cho người nghe có cảm giác cầu Trường Tiền dài mù mịt và sông Hương cuồn cuộn sóng dữ. Nhưng thực tế chiếc cầu đã ngắn mà giòng sông lại hiền hòa thế kia thì tại sao lại “qua không kịp” vậy kìa?

Người bạn thổi sáo trả lời:

– Muốn hiểu Huế cần phải biết cách “nói lẩy” của mấy o gái Huế. Ngày trước, sau khi cầu Trường Tiền do Pháp dựng lên, Huế bị chia ra làm hai thế giới: Phía bên nầy sông Hương là thế giới của người Việt Nam và phía bên kia là thế giới của Tây. Người bình dân xứ Huế nhìn qua bên kia với những tên xa lạ như vùng “Xạc-Măng-Rông”(Charfanjon), “Mô-Ranh” (Morin Frères), “Trường Sài-Nhô” (Chaigneau Ecoles)… Vì vậy khi người tình đã “qua cầu” Trường Tiền rồi thì kể như đã sang một vùng trời khác với thế giới “tối rượu sâm-banh sáng sữa bò” xa lạ của Tây, Đầm… làm sao cô gái mộc mạc chân chim theo cho kịp được.

Có thể nói mỗi bước chèo khoan của sông Hương đều có man mác một dòng lịch sử, nên đò đã đến gần khúc sông giữa cầu Gia Hội và Cồn Hến lúc nào mà khách đi dò vẫn còn miên man trên những nhánh sông của quá khứ.j

Theo hướng dẫn của Thùy, thuyền tạm neo bên bờ sông Đào đổ ra sông Hương, gần cầu Gia Hội. Khi Thùy lên tiếng mời mọi người sẵn sàng “đi ăn” thì ai cũng nghĩ đến một tiệm ăn nào đó trên bờ. Thùy bước ra phía mũi đò và đưa tay ngoắc một một chiếc xuồng gần đó, dặn dò to nhỏ với người duy nhất ngồi trên xuồng. Người lái xuồng quay mũi đi lập tức, Anh bạn người Nam coi chừng đã đói bụng, nhắc:

– Còn chờ gì nữa, thôi chúng ta đi ăn đi các anh chị.

Thùy cười:

-Chúng ta ăn ngay ở đây chứ khỏi cần đi đâu xa.

Liền đó, ba bốn chiếc xuồng nan đã tiến tới cặp bên đò khách. Xuồng nan là một loại thuyền câu nhỏ, đan bằng tre, trét kín bằng dầu hắc hay dầu rái để nước khỏi rỉ vào. Xuồng chỉ cần một người lái với hai tay bơi hai chiếc chèo nhỏ gọi là chầm. Xuồng di chuyển thoăn thoắt và rất cơ động trên giòng sông nhỏ chằng chịt thuyền đò. Xuồng tạo thành một mạng lưới thông tin, liên lạc, mua bán, trao đổi rất nhanh chóng và tiện lợi trong thế giới thuyền chài trên sông Hương. Mỗi chiếc xuồng được trang bị như một bếp nhỏ và chuyên trách một món ăn nào đó. Các chủ xuồng, hầu hết là mấy o, mấy thím. Những món ăn đặc thù của Huế như bún bò, cơm hến, cháo lòng, gà xé phay, bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc, bánh ít, bánh cuốn, xôi thịt hon, chè xanh đánh, chè nhãn, chè hột sen, chè thịt quay… đều có đầy dủ trong những cửa hàng nổi tý hon nầy.

Mở màn, mấy anh ăn gà xé phay uống với rượu nếp; mấy chị ăn bánh nậm tôm chấy và bánh bèo thịt heo luộc. Một anh bạn thắc mắc sao không uống bia hay rượu tây mà lại uống rượu nếp thì Thùy nêu ý kiến rằng, ngủ đò trên sông Hương thì ngon nhất là uống rượu nếp vì rượu nếp “đằm” và “ngấm dai”. Nếu uống bia mà phải ngồi xếp bàn trên đò thì bụng sẽ “nê” và mắc “đi ngoài” liên tục. Đò trăng, lại có thêm người đẹp mà phải đứng trên đò làm cái công việc ngủ uẩn trần ai thì còn chi là hồn thơ của Hương Giang dạ khúc nữa. Nếu uống rượu mạnh thì sương đêm và gió sông rất dễ làm cho khách chìm đắm và có khi ngủ quên trong hơi men, nhìn mọi vật lờ đờ sương khói, còn đâu cái cảm giác dìu dặt, ngây ngây để nằm ngửa nhìn trăng, nằm nghiêng nhớ… bến! Tiếp theo là món ăn tùy thích của mỗi người và cuối cùng là bún bò Huế. Cái ngon của “những nhà hàng nổi sông Hương” đến từ hình ảnh chập chờn của những ngọn đèn dầu leo lắt, những bếp lửa mong manh, những bàn tay buông chầm cầm chèo thoăn thoắt, những món ăn chuẩn bị cầu kỳ mà nhìn đơn giản, những chén dĩa nhỏ nhắn, đơn sơ và đặc biệt là những món ăn thơm mùi “tiệm”, nhưng cũng phảng phất mùi khói nhẹ nhàng trên đội xuồng rần rật đánh thức sông Hương.

Sau bữa ăn, có dấu hiệu bất thường nào đó đã gây nên một thoáng xôn xao trong đò. Hình như “triệu bất tường” phát xuất từ cặp vợ chồng người Nam. Cuối cùng hình như không còn đè nén được nữa, anh bạn người Nam bò sang phía tôi, ghé sát tai tôi thì thầm báo động: “Bả muốn tiểu tiện! Đây có chỗ nào đi không?”. Tôi ráng nín cười, kéo tay anh bạn ra phía đằng sau lái để hỏi người chủ đò về phương tiện vệ sinh. Người chủ đò lật đật đem ra một cái lon sữa Guigoz, nói một cách thật thà:

– Mời mấy “khách quan” ngồi trên đò đi trong lon “gô” ni cũng đặng.

Anh bạn lật đật tới đằng trước kéo bà xã ra đằng sau để giải tỏa bầu tâm sự. Tôi và người chủ đò tạm lánh mặt tận đằng sau lái để cặp vợ chồng tự do chèo chống với nhau, nhưng anh chồng lại băn khoăn tới báo hung tin:

– Cái lon “gô” nó “kỳ” quá, bả đi không được.

Người chủ đò bèn đổi chiến thuật:

– Thôi thì bồng bà lên trên mạn đò để đi xuống sông mau hơn.

Anh bạn lại làm theo lời chỉ bảo, nhưng được một lát lại vào báo cáo:

– Ngồi giữa lộ thiên nó, nó… trống trải quá hà, bả chịu hổng đi được.

Tôi đã đoán là sự cố coi bộ không êm xuôi vì cái cảnh “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, trơ cái hồng nhan với nước non” khó mà chịu nổi với một người phụ nữ mới lần đầu đi ngủ đò. Tôi ngoắc đại một chiếc xuồng đang chèo chầm chậm gần đó và thuê chở chị vợ anh bạn vào bờ mới có nhà vệ sinh. Xuồng cặp sát ngay mạn đò và tôi vào đề ngay không cần uốn lưỡi một lần nào cả:

– Mời chị lên ngay xuồng để vào bờ mới có nhà vệ sinh.

Khi chị bạn đã bước xuống chiếc xuồng nhỏ chòng chành, anh chồng và tôi định xuống theo nhưng o lái xuồng đã la ơi ới cản lại vì xuồng chở được tối đa là ba người. Cuối cùng tôi phải đi theo vì quen thuộc địa phương hơn. Xuồng vừa lướt êm vài chục thước, tôi bỗng nghe một tiếng rên nho nhỏ từ phía chị bạn miền Nam… và, tiếp theo là tiếng nước chảy róc rách từ trên tấm chỏng tre xuống lòng xuồng. Cô lái xuồng coi bộ hoảng hốt, nói với tôi bằng một giọng đặc sệt tiếng Huế vùng quê:

– Nì, eng nớ coi tề. Cấy chi kiêu rỏn rỏn ngụy hung. “Tòng” miền bị lủng răng hè? (Nè anh kia coi kìa. Cái gì kêu rỏng rỏng lạ lắm. Xuồng mình bị thủng sao kìa?)

Cũng may là chị bạn hoàn toàn không hiểu cô lái xuồng đang nói gì. Mặc cho cô lái xuồng phản đối líu lo, tôi làm bộ trượt tay rồi vươn tay ra khoát mạnh nước lên xuồng cho mọi người cùng ướt. Khi ba người đều bị ướt, nguyên nhân có thể hơi khác nhau nhưng hậu quả vẫn là ướt, nghĩa là huề cả làng. Xuồng cặp bờ, chị bạn nói rất nhỏ đủ tôi nghe:

– Thôi khỏi, cảm ơn anh, tôi “xong” rồi…!

                                                 o0o

Phố đò sông Hương trong những đêm mùa Hè, có trăng thường bắt đầu ngủ khoảng 3 giờ sáng. Trong những ngày nóng bức nhất của Huế, khí hậu lý tưởng trên sông Hương là vào lúc nửa đêm về sáng. Giờ đó có một ít sương loãng giác bạc bầu trời, pha với khói sóng và gió núi bâng quơ sẽ làm cho khách ngủ lộ thiên trên đò có được cái cảm giác của gió lụa về mơn man trên má, trên tóc, trên môi. Ngủ trên đò, khách chưa quen với sóng nước lúc đầu sẽ có một cảm giác ngây ngây, êm đềm như say nắng. Đò neo nột chỗ nhưng vẫn lắc lư dìu dặt và chòng chành nhẹ nhàng theo con sóng. Âm thanh nước vỗ vào mạn thuyền, vào chân cầu, vào bờ kia bến nọ lúc hối hả, lúc buông lơi như thì thầm gọi mời giấc ngủ. Vận tốc ảo do các đò lân cận chèo ngược, về xuôi thường làm cho khách ngủ đò mơ hồ không biết mình trôi, nước trôi, đò trôi, hay cả thế giới đang trôi bỏ mình ở lại. Giấc ngủ trên đò thường đến dễ, thoải mái với hơi thở nhẹ và sâu căng phồng buồng phổi. Nếu có một chút trăn trở, khách sẽ có dịp nằm nhìn trời cao và đen xanh thăm thẳm trên kia rồi vẽ ra những kỷ niệm, những khuôn mặt khi ẩn khi hiện với trăng sao lay lắt xa xăm và mờ nhạt. Nếu khách có chút máu văn nghệ vặt thì rất có thể thơ Hàn Mặc Tử sẽ hiện về hỏi thăm, “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?”. Hoặc buồn hơn một chút nữa sẽ nhớ thơ Đường của Trương Kế “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên. Giang phong ngư hỏa đối sầu miên… Qụa kêu trăng lặn sương đêm. Đèn chài gió sóng cho thêm nỗi sầu…

Ngủ đò mà ngủ ngon là chưa đạt, vì ngủ ngon là đã gói trọn cả trái đất này trong tiếng ngáy pho pho, mặc cho gối thắm, má hồng, môi son, mắt sóng rơi vào… “hư vô”. Ngủ đò là sống từng phút từng giây, từng vi ti của cảm giác để một mai lỡ “thuyền có về Đại Lược, duyên có ngược Kim Long” thì vẫn còn một chút gì để nhớ và để…thèm về một khuôn mặt khó quên, một giòng sông lãng đãng và một xứ Huế trầm lặng nhưng lãng mạn và đa tình không nói hết.

Nằm trên đò, sẽ nghe một ngày tàn của Huế lịm dần với tiếng rao hàng xa xôi và mất hút của chè đậu xanh đậu ván, của bún bò, của phở. Rồi một ngày mới của Huế bắt đầu với tiếng chuông Thiên Mụ gióng lên lúc 5 giờ sáng. Huế trầm lặng qúa nên trong những ngày tốt trời tiếng chuông lan xa đến tận Văn Xá, Hương Cần, Chợ Nọ, Chợ Dinh. Một ngày mới của khách ngủ đò thường bắt đầu với ánh mặt trời “dòm mặt”. Khách sẽ mĩm cười với nắng, với Huế và với chính mình khi chải tóc trong gương: “Ngủ đò, một kỷ niệm khó quên mỗi lần nhớ Huế!”.

Một đêm ngủ đò được coi là “đạt” khi sáng hôm sau khách ngỡ ngàng với chính mình vì hình như đêm qua mình và giòng sông đã tan loãng hòa làm một; mình đã coi những giá trị bao năm gìn vàng giữ ngọc thành phù phiếm và bỗng thấy đò nước sông Hương có một mày vẻ, một linh hồn riêng của nó. Rồi tự nhiên cảm thương chính mình, thương giòng sông, thương cuộc đời và thương số phận long đong của khách giang hồ và người kỹ nử.

Buổi chia tay trên phi trường Phú Bài, anh bạn miền Nam phát biểu cảm tưởng:

– Chúng tôi thật may mắn vào giờ chót lại được đi ngủ đò. Chuyến nầy về thăm Huế mà không được đi ngủ đò thì chỉ mới biết Huế có một nửa. Từ nay tôi có thể lên lớp nói chuyện với học trò về cái thú ngủ đò trên sông Hương như nói chuyện dong thuyền ngâm thơ trên Hồ Tây, khỏi có băn khoăn hay ngại ngùng gì cả.

Tôi nheo mắt nói riêng nho nhỏ với anh bạn:

-Thùy hẹn anh sang năm về Huế đi “ngủ mặn” đó nghe.

Chị bạn vẫy tay từ biệt vẫn không quên nhắn lại:

-Cảnh Huế đã đẹp một cách thâm u mà người Huế lại quá thâm trầm. Cám ơn anh rất nhiều và sẽ nhớ mãi “Tuyệt Anh Hội” trên xuồng “cấp cứu”…

                                           o0o

Năm 1973, một năm sau ngày “Đại Lộ Kinh Hoàng”, tôi theo học sinh hồi cư trở lại Quảng Trị. Để giúp tuổi trẻ lang thang bụi đời trên vùng đất hồi cư còn đau ê ẩm với vết thương của chiến tranh nầy, tôi được mời vào Huế nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của các tổ chức tiền phong đang hoạt động ở đó trong giới gái giang hồ và trẻ em hè phố, bụi đời. Nhờ vậy mà tôi được cái “hân hạnh trời đày” là ngủ đò miễn phí, công khai, nhưng lại ngủ đò chay, không phải trên thuyền rồng say duyên, thuyền tình nghiêng ngửa mà trên thuyền “thái giám” lặng lờ của trung tâm xã hội Caritas trên sông Hương.

Tất cả ghe thuyền trên sông Hương có khoảng từ hai đến ba nghìn chiếc. Con số co giãn vì một số đò chợt đến chợt đi tùy mùa và tùy hoàn cảnh. Từng nhóm đò họp lại với nhau thành một khu vực nào đó gọi là Vạn Đò. Vạn An Hội, là vạn lớn nhất trong những năm 70, gồm các đò đậu hai bên bờ sông kéo dài từ cầu Gia Hội cho đến cầu Đông Ba và rải rác tới Cửa Trài. Những cô gái Sông Hương lạc loài hương phấn hầu hết nằm trong địa bàn của Vạn An Hội. Vạn Tân Bửu, Vạn Trường Độ, Vạn Lợi Thành kéo dài từ Bến Xe Buýt Chợ Đông Ba lên tới Cầu Mới và lẻ tẻ đó đây lên tới mạn dưới Kim Long. Các vạn đò trong vùng nầy chủ yếu là làm ăn bằng phương tiện đánh cá, vận tải hay mua bán đổi chác hơn là rước khách. Ngoài ra còn có một vạn đò rất cơ động và cũng đã đóng một vai trò rất sôi động trên sông Hương là Vạn Lanh Canh. Tên “Lanh Canh” xuất phát từ tiếng gõ lanh canh của các tròng đánh cá nhỏ lúc hành nghề. Nhưng sau nầy hầu hết đã chuyển nghề thành một mạng lưới phục vụ rất nhộn nhịp khắp nơi trên sông Hương.

Huế là vùng đất của suy tư và tình cảm, nhưng lại không có chỗ dung thân cho ngày trở về của những đứa con hoang.

Đọc Kiều, ai cũng cảm thương cho cuộc đời luân lạc, truân chuyên của một nàng Kiều tuyệt thế, tài hoa. Đến Huế, bao nhiêu người đã tiếc cho một giòng sông Hương hiền hòa mà phải cưu mang những đứa con bất hạnh.

Có một nhà thơ cổ vừa lãng mạn, vừa trào phúng của Huế mà tôi rất hâm mộ, đó là cụ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, nhưng nhiều người lại không thích hai câu thơ đối của cụ sáng tác đâu vào khoảng năm 1947 mà dân Huế nhiều người thuộc. Người ta không thích bởi nó quá tàn nhẫn và trần trụi, thiếu mất một một lớp khói sóng mong nanh của sông Hương và lớp lá me bay che tiếng thở dài không hợp với phong thái lãng mạn, nhẹ nhàng và trầm tư của Huế. Đó là hai câu:

Núi Ngự không cây chim đậu đất
Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời.

Một sớm mùa Xuân trước khi Huyền Trân Công Chúa giã biệt sang Chiêm Quốc thì Huế vẫn là vùng Ô Châu Lạc Địa và giòng sông Hương vẫn là giòng sông trinh nguyên của chim bói cá dưới nước, chim sơn ca trên trời giữa hai bờ lau lách.

Rồi một ngày, Huế trở thành Hoàng Triều Cương Thổ thì chim chóc lưa thưa vì sợ người săn đuổi, lau sậy không còn đất mọc vì hai bên bờ sông Hương đã bắt đầu phân chia Kẻ Chài và Kẻ Chợ. Kẻ Chài là tiền thân của những vạn đò mà hơn 500 sau sẽ thành mạng lưới dân thủy diện trên sông Hương hôm nay.

Một thời, khách ngủ đò trên sông Hương là hàng tao nhân mặc khách. Những chàng tư mã áo xanh và những vương tôn công tử hào hoa trọng nghĩa khinh tài. Thuở đó, đò là phương tiện để chở nhạc và thơ, đầy tiếng ca, tiếng sáo, tiếng đàn, tiếng phách… chưa gợn một chút u tình.

Rồi một thời tan tác đổ. Chiến tranh, phân ly, nghèo đói đã đưa những kiếp người vào ngõ cụt: “Bán thân nuôi miệng, bán tiếng nuôi con”. Những đứa con xứ Huế lỡ một lần làm điếm nhục gia phong là kể như chung thân biệt xứ.

Nếu Huế có quyền chọn lựa những ước mơ thì ước mơ đầu tiên là đất nước sẽ giàu, những vùng quê thôi nghèo đói, những cô gái sông Hương có được một cuộc đời, nếu không được “êm đềm trướng rủ màn che” thì cũng đáng sống để trả sông Hương về lại dáng xưa với tiếng đàn, tiếng phách. Sông Hương khó mà chịu nỗi những tiếng cười vỡ vụn nhức buốt và những tiếng thở dài áo não đêm đêm trên những con đò!

                                            o0o

Giòng sông Hương cũng như một đời người chia thành nhiều khúc. Khúc thượng nguồn là tuổi trẻ măng tơ và thanh thoát. Khúc Thiên Mụ Kim Long là tuổi thành niên đã bắt đầu thấp thoáng ưu tư. Khúc Đông Ba Gia Hội là tuổi trưởng thành để vật lộn, tranh sống với đời “mười hai bến nước, bến mô trong thì nhờ, bến mô dơ thì chịu”. Từ đó, sông Hương sẽ rẽ về hai ngã: Ngã Đò Cồn, Vỹ Dạ mang dáng dấp trầm tư của con nhà quan về vườn qui ẩn. Ngã Bao Vinh, Ba Sình giống như tuổi sắp già chán cảnh bon chen, nhưng vẫn còn duyên nợ với cuộc đời, ít ra là cũng “phù thế giáo một vài câu thanh nghị”. Và cuối cuộc đời, rồi cũng như tất cả những nhánh sông Hương đều trôi về biển.

Ngủ đò trên sông Hương là đang nằm trên giòng đời trôi chảy. Ngủ chay là tĩnh, ngủ mặn là động; động tĩnh cũng chỉ là hai mặt của một trự tiền. Nằm ngủ đò trên sông Hương có những lúc không biết đò trôi theo nước hay nước trôi theo đò. Trôi đi cũng có nghĩa là chảy về. Về đâu? Về lại chính mình. Khi tâm mình không động thì ngủ chay hay ngủ mặn, đò trôi hay nước trôi có nghĩa gì vì ta vẫn nằm đó. Nằm im nghe sóng hay nghiêng ngửa với thuyền tình thì vẫn là ngủ đò trên sông Hương. Khách viếng Huế vẫn thường có một tâm trạng chung là viếng Cố Đô, nghĩa là chân bước đi dưới những hàng phượng đỏ và nằm trên sóng nước sông Hương đang trôi chảy về xuôi mà hồn vẫn cứ rưng rưng với dĩ vãng. Khách cứ nhìn Huế như một thiên đường đã mất nên ngủ đò như một kẻ lạc hồn, ít khi tỉnh thức để “chộ mình đang ở bến mô”. Ngủ đò như thế là có nợ mà không có duyên với Huế.

Có một người làm thơ tại Sacramento với những vần thơ lục bát mượt mà, cổ kính và đẹp kiêu xa như tên gọi một giai nhân thời dựng nước: Thục Nữ Văn Lang. Tôi đang loay hoay tìm câu kết luận cho bài nầy thì Thục Nữ Văn Lang vừa tặng bài thơ Khúc Sầu Thiên Cổ. Bài thơ mang âm hưởng buồn cổ độ của điệu hát Nam Ai, Nam Bình. Tiếng thơ nghe ra cũng là “có nợ” với cố đô rồi đó, nhưng chưa biết sẽ có duyên hay không:

Tình sầu vọng gởi cố đô
Sông soi cổ tháp- Thuyền lờ lững trôi.
Chiều tàn, mộ khúc à-ơi!
Não lòng lăng tẩm bên đồi nhớ vua.
Bốn ngàn năm của hồn xưa
Hương cau- Đền cũ- Lưa thưa nắng thề.
Ô Châu hề! Thuận Hoá hề!
Hoàng triều Nguyễn Thị đã về bến mô?
Ngàn đời còn đó Nam Ô
Khúc sầu thiên cổ: Điệu hò Nam Ai.

Một đêm trăng nào đó với một con đò nhỏ trên sông Hương, trước khi ngủ đò, tôi sẽ đọc lại bài thơ nầy để Huế nghe thử có duyên tới mô, Huế hỉ! Nhưng có lẽ trước khi gởi thơ cho nước, tôi sẽ xin phép tác giả sửa lại một từ trong câu gần cuối của bài thơ:

Ngàn đời còn đó con đò
Khúc sầu thiên cổ: Điệu hò Nam Ai.

Xin được thay “Nam Ô” bằng “con đò” vì Nam Ô xa quá, cách Huế cả một cái đèo Hải Vân trùng trùng mây bay sương phủ. Lại nữa, đò Nam Ô là đò nước mặn “ngủ đò nước mặn sợ hà ăn… chân”. Có ngủ đò nước ngọt sông Hương mới biết thương sông Hương. Và, thương những gót son, môi thắm, má hồng… của Huế đang cố dấu niềm u ẩn tàn phai sau nụ cười vỡ vụn và ánh mắt phong ba vì sông nước Hương Giang cứ trôi chảy hoài ra biển, quê hương thì biền biệt, răng lại quên mất nơi mô là chốn cũ quay về.

Trần Kiêm Đoàn

 

 

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Ngủ Đò – tác giả Trần Kim Đoàn

Mãi cám ơn em – Thơ TPK

MÃI CÁM ƠN EM

tpk

Bao năm trường lận đận
Theo bước chân anh đi
Em chung vai cực khổ
Không than vãn điều gì

Mặc gió gào sóng vổ
Mặc bảo tố nguy nan
Em tiếp thêm động lực
Để thuyền anh vững vàng

Những tháng ngày tị nạn
Mình chịu nhiều đắng cay
Đi xin lòng từ ái
Trong trại cấm lưu đày

Rồi tự do cũng đến
Được vào đất Hoa Kỳ
Bao khó khăn ập tới
Em nước mắt lâm ly

Nhờ ơn trên gia hộ
Nhờ góp sức của em
Mình có đời an lạc
Mãi mãi cảm ơn em

Bây giờ trên tám bó
Vẫn được em chăm lo
Từng miếng ăn giấc ngủ
Đây ơn phúc trời cho.

TPK

Ngày Phụ Nữ 2024

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Mãi cám ơn em – Thơ TPK

Chia buồn của K1 Bắc Cali

K1 Bắc Cali chia buồn cùng
gia đình K1 Nguyễn Văn Hoàng

IMG_2427

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Chia buồn của K1 Bắc Cali

Báo Thế Giới Tự Do 1967 viết về “Nữ Cảnh Sát Quốc Gia” – Trích từ FB Cựu Sinh Viên HV CSQG

Báo Thế Giới Tự Do 1967 Tập XVI Số 2
Viết về Nữ Sĩ Quan Cảnh Sát Quốc Gia.

421441572_2787314744743281_7788783597946464018_n

421698663_2787316341409788_8029904102913049611_n

421656191_2787316348076454_4665376835078533124_n

421653360_2787316184743137_3021095141337117623_n

421715877_2787316178076471_3684397371501999314_n

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Báo Thế Giới Tự Do 1967 viết về “Nữ Cảnh Sát Quốc Gia” – Trích từ FB Cựu Sinh Viên HV CSQG

Điệp viên siêu hạng của VNCH – share từ FB Cựu sinh viên Học Viện CSQG

Điệp Viên Siêu Hạng Của VNCH

430983894_416541887583341_2440336322145951762_n

Điệp viên siêu hạng của VNCH, Võ Văn Ba không thua kém gì Phạm Xuân Ẩn thậm chí tài giỏi hơn nếu nói về gian khổ trong hoạt động.

Nếu Chú ấy còn sống và vinh danh sẽ được lon gì trong quân đội?

Võ Văn Ba sinh năm 1923 tại tỉnh Long An, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương, thời Việt Nam Cộng hòa thuộc tỉnh Kiến Tường.

Ban đầu, Võ Văn Ba gia nhập đội du kích địa phương ở Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (VC). Theo tài liệu phía Việt Nam, qua một thời gian, Võ Văn Ba trốn khỏi địa phương lên làm ăn ở chợ Long Hoa (Tây Ninh). Qua một quá trình điều tra, tháng 2 năm 1960, Võ Văn Ba được Trưởng chi Cảnh sát Quốc gia quận Phú Khương Nguyễn Văn Yên tuyển mộ. Tháng 12 năm 1962, Võ Văn Ba cộng tác trực tiếp với Nguyễn Văn Phước (Năm Giáng) thuộc Ty Cảnh sát Tây Ninh, và đến tháng 4 năm 1963, nhờ hoạt động hiệu quả nên được CIA tuyển mộ, gia nhập Cục Cảnh sát Đặc biệt phụ trách, giúp đỡ để nằm vùng trong lực lượng MTDTGPMNVN tỉnh Tây Ninh. Giữa năm 1963, chỉ sau ba tháng “xin trở lại phục vụ Cách mạng”, Võ Văn Ba được trở lại sinh hoạt Đảng trong Đảng bộ Tây Ninh.

Cuối năm 1965, Võ Văn Ba trở thành Bí thư Chi bộ. Cuối năm 1968, được bầu làm Huyện ủy viên dự khuyết Huyện ủy Hòa Thành. Năm 1970, Huyện ủy viên Huyện ủy Hòa Thành. Nguồn tin phương Tây còn cho biết khoảng trước 1975, Võ Văn Ba giữ chức Bí thư Huyện ủy Phú Khương (Tây Ninh), chịu trách nhiệm tuyển mộ thành viên của đạo Cao Đài. Dù chỉ nằm vùng trong cấp huyện, nhưng do Tây Ninh là nơi Trung ương Cục miền Nam đóng giữ, nên Võ Văn Ba có thể tìm hiểu được nhiều thông tin quan trọng thông qua nhiều con đường khác nhau, không chỉ qua các văn bản gửi từ trên xuống. Trong khoảng thời gian này, Võ Văn Ba làm gián điệp cho cả CIA và Việt Nam Cộng hòa, cung cấp thông tin thông qua thư từ. Từ những thông tin do Võ Văn Ba cung cấp, quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã mở nhiều cuộc tấn công vào địa bàn của MTDTGPMNVN ở Tây Ninh, gây ra những thiệt hại đáng kể. Tình báo quan trọng nhất được cung cấp là dự thảo kế hoạch phục vụ cho việc đàm phán và ký kết Hiệp định Paris (1973).

Trước năm 1975, phía MTDTGPMNVN từng có sự nghi ngờ về việc tồn tại gián điệp trong nội bộ, Võ Văn Ba đã tận dụng việc bản thân trùng tên với hai người thuộc Thường vụ Tỉnh ủy Tây Ninh để tạo bằng chứng giả khiến hai người đó bị bắt oan. Ngày 12 tháng 3 năm 1975, trong Chiến dịch Tây Nguyên, Chỉ huy CIA ở Cao nguyên Trung phần Jame Lewis cùng đặc vụ Nguyễn Sĩ Phong (hay Nguyễn Văn Phong, một số nguồn ghi là Phương bị bắt giữ, sự tồn tại của X92 bị phát hiện. Dưới sự chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ Công an Viễn Chi, ngày 30 tháng 4, Thiếu tá Phan Tấn Ngưu (Trưởng F đặc biệt Cao nguyên Trung phần) và Nguyễn Tấn Danh, người trực tiếp phụ trách X92 ở Tây Ninh, bị bắt. Từ hồ sơ và lời khai, Võ Văn Ba bị xác định danh tính và bị lực lượng điều tra dưới quyền Cục trưởng Cục Chấp pháp Cao Phòng bắt giữ.

Võ Văn Ba bị giam giữ ở Tổng nha Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa cũ và được dự định bàn giao cho An ninh Trung ương Cục miền Nam xét xử. Ngày 8 tháng 6, Võ Văn Ba rút dây quần tự tử trong tù.

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Điệp viên siêu hạng của VNCH – share từ FB Cựu sinh viên Học Viện CSQG

Đón Xuân Nầy Nhớ Xuân Xưa . Hoàng Tuấn sưu tầm

Mậu Thân tại Quận Nhì Saigon

Trần Minh Công
Nguyên Trưởng Ty CSQG-Quận Nhì
January 3, 2012

3

Có lẽ không ai trong chúng ta quên được những bất ngờ đầy kinh hoàng của Tết Mậu Thân 40 năm về trước.

 Bất ngờ vì ít ai nghĩ rằng Cộng Sản Miền Bắc dám ngang nhiên vi phạm lệnh hưu chiến mà chính chúng đã ký kết. Kinh hoàng vì người CS không ngần ngại bắn thẳng vào dân lành vô tội và phóng hỏa thiêu rụi cả một khu phố, gây cảnh màn trời chiếu đất cho biết bao nhiêu người.

Mậu Thân là một bằng chứng cho thấy rằng người Cộng Sản Việt Nam trước sau chỉ có một mục tiêu: đạt cho được quyền lực và thắng lợi bằng bất cứ giá nào, bất kể sinh mạng và tài sản dân chúng. Tha hương đã gần 40 năm qua mà hình ảnh Tết Mậu Thân tại Quận Nhì Saigon đối với tôi như vừa mới xẩy ra hôm qua. Người ta có thể dễ dàng quên đi nhiều chuyện nhỏ trong đời nhưng những thảm cảnh lớn thì khó ai quên được.

Trong năm Mậu Thân 1968, Quận Nhì đã bị Ðặc công Việt Cộng xâm nhập và đánh phá tại bốn địa điểm trong hai đợt Mậu Thân 1 và 2. Trong đợt 1, VC đánh Dinh Ðộc Lập. Trong đợt 2, VC đánh vào các khu đông dân cư như Chợ Cầu Muối, Cầu Rạch Bần, đường Ðề Thám.

Ðể độc giả hiểu rõ các trận đánh trước hết xin được nhắc lại vài chi tiết về Quận Nhì. Ðô Thành Saigon vào năm Mậu Thân (1968) có 8 quận Hành Chánh và Cảnh Sát, trong đó Quận Nhì được coi là trung tâm Saigon. Quận Nhì có những đại lộ lớn như Lê Lợi, Hàm Nghi, Trần Hưng Ðạo, một phần Công Lý, Hồng Thập Tự và nhiều đường buôn bán sầm uất khác như Gia Long, Lê Thánh Tôn, Lê Lai, bến Bạch Ðằng, đường Chương Dương. Quận Nhì cũng là nơi tập trung những cơ sở quan trọng như Dinh Ðộc Lập, Thượng Nghị Viện, chợ Bến Thành, công viên Quách Thị Trang, công viên Tao Ðàn, ngã sáu Lê Văn Duyệt-Gia Long-Võ Tánh-Ngô Tùng Châu, thương xá Tam Ða, bến xe Nguyễn Cư Trinh, v.v…

Bên cạnh những đường được coi là khang trang kể trên, Quận Nhì còn có những khu nhà cửa chen chúc phức tạp như khu Cầu Kho, chợ Cầu Muối, khu Ðề Thám-Bùi Viện hoặc khu Chương Dương dọc bờ sông Cầu Ông Lãnh… Việc kiểm soát an ninh cũng như phòng hỏa tại các khu này rất khó khăn. Tôi phải dài dòng kể như vậy để bạn đọc thấy được tại sao trong cả 2 đợt tấn công Mậu Thân, Việt Cộng lại cố tạo ra vài trận đánh có tính cách phô diễn trong phạm vi Quận Nhì.

Trong đợt đầu, vào những ngày Tết, VC muốn gây tiếng vang trong dư luận, đặc biệt là trong dư luận Hoa Kỳ nơi phong trào phản chiến đang lan rộng. Việt Cộng muốn cho mọi người thấy rằng ngay cả Dinh Ðộc Lập là biểu tượng quyền lực của miền Nam cũng có thể bị chúng uy hiếp. Chính vì vậy mà ngay trong đợt tấn công đầu hai mục tiêu quan trọng nhất của chúng là Dinh Ðộc Lập và Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ.

Không như đợt đầu vào dịp Tết Mậu Thân, đợt hai (được khai diễn vào ngày 5 tháng 5-1968) VC lại tập trung nỗ lực vào các khu lao động đông dân chúng. Ý đồ của chúng là tuyên truyền và khích động dân chúng nổi dậy trong kế hoạch “tổng công kích, tổng khởi nghĩa”.

Mặc dù trong cả 2 đợt tấn công, VC không thành công, nhưng chúng đã khai triển được yếu tố bất ngờ và tạo được dư luận quốc tế có lợi cho mặt tuyên truyền của chúng. Chúng ta bị bất ngờ nhưng cũng phải nói thêm là vì chúng ta khinh địch. Dân chúng và cả các lực lượng hành chánh lẫn quân sự ít ai tin rằng VC dám ngang nhiên vi phạm lệnh hưu chiến trong 3 ngày Tết mà chúng đã công khai cam kết. Rất nhiều đơn vị quân sự đã cho phép số lớn quân nhân về ăn Tết với gia đình. Việc phòng thủ do đó bị lơi là ít nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tấn công của VC.

Riêng Lực Lượng CSQG lúc bấy giờ được Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan (sau này là Thiếu Tướng) ra lệnh cắm trại 100% để đề phòng mọi bất trắc. Những tin tức tình báo mà Cảnh Sát Quốc Gia ghi nhận được đều được Tướng Loan chuyển cho các đơn vị bạn. Nhưng có lẽ các nơi nhận không tin là VC có khả năng tấn công vào các cơ quan đầu não của VNCH ngay tại các đô thị trong thời gian hưu chiến. Vì vậy, hậu quả “bất ngờ” đã xẩy ra như chúng ta thấy.

Trận Dinh Ðộc Lập

Tại Ðô Thành Saigon, ngay sáng sớm ngày mùng một Tết, VC đồng loạt tấn công dinh Ðộc Lập và Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ. Cả 2 đều nằm trên đường Thống Nhất. Dinh Ðộc Lập trong phạm vi Quận Nhì và Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ cách đó không xa, nằm trong Quận Nhất.

Theo chỉ thị của Tướng Loan, tôi ra lệnh cắm trại 100% và chỉ thị các Chi Cảnh Sát trực thuộc phải đề phòng và gia tăng tuần tiễu trong khu vực trách nhiệm. Ðiều ít ai ngờ tới là mục tiêu hàng đầu của VC trong đợt một lại là Dinh Ðộc Lập. Vào dịp này, Lữ Ðoàn Liên Binh phòng vệ Phủ Tổng Thống cũng như nhiều đơn vị quân đội khác đã cho phần lớn binh sĩ được nghỉ phép về ăn Tết với gia đình. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng về quê vợ tại Mỹ Tho ăn Tết. Khi VC tấn công chỉ còn Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ và Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc có mặt tại Saigon.

Sáng sớm mùng một Tết, tiếng súng khai hỏa của VC được phát đi cùng lúc với tiếng pháo giao thừa khiến nhiều nơi không phát hiện được là VC đang tấn công Saigon. Giao thừa vừa qua chừng 45 phút thì tôi được Trưởng Chi Cảnh Sát Tao Ðàn báo cáo trên máy là nhân viên ghi nhận có một số người mặc áo lính, quần cụt, chạy lăng xăng trên đường Nguyễn Du dọc theo bờ tường phía Nam Dinh Ðộc Lập.

Vừa nhận báo cáo xong thì tôi nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ. VC khởi đầu tấn công vào cổng gác Nguyễn Du của Dinh Ðộc Lập bằng B-40 và hàng loạt AK-47. Cổng này nằm trên đường Nguyễn Du ngay góc đường Thủ Khoa Huân. Xe tuần tiễu Chi Tao Ðàn dồn dập báo cáo. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa: VC đã xé rào vi phạm lệnh hưu chiến, đúng như Tướng Loan đã dự đoán. Tôi chụp máy truyền tin báo cáo cho Trung Tá Nguyễn Văn Luận, Giám Ðốc Cảnh Sát Ðô Thành, và gọi thẳng cho Chuẩn Tướng Loan như ông đã căn dặn.

Trong khi toán Ðặc công VC đang dùng B-40 tính bắn sập vọng gác cổng Nguyễn Du để vượt vào bên trong đặt chất nổ giật sập dinh Ðộc Lập thì toán tuần tiễu Chi Tao Ðàn nhào tới bắn trả. Tôi gọi cho Trung Úy Huỳnh Kim Long, Trưởng Chi Lê Văn Ken trước chợ Bến Thành, đưa quân nhân viên lên tiếp cứu. Toán Ðặc Nhiệm của Quận Nhì cùng tôi nhảy lên xe phóng tới dinh Ðộc Lập.

Bọn Ðặc công VC bị tấn công mạnh cùng lúc từ ba phía, binh sĩ Phòng Vệ tại cổng Nguyễn Du bắn trả, Toán Tuần tiễu Cảnh Sát Chi Tao Ðàn bắn ngang hông từ phía đầu đường Nguyễn Du. Toán tiếp ứng từ Chi Lê Văn Ken và Toán Ðặc Nhiệm của tôi bắn tới từ phía đường Thủ Khoa Huân, giải tỏa áp lực cho cổng Nguyễn Du. Vì bị Cảnh Sát Quận Nhì tấn công bất ngờ từ ngang hông và sau lưng, bọn Ðặc công VC phải lùi lại. Một số VC chạy thoát thân về hướng nhà thờ Ðức Bà tiếp tay với toán Ðặc công đang tấn công Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ. Số còn lại gồm 7 tên chạy dạt vào một cao ốc phía đường Thủ Khoa Huân phía trước cổng Nguyễn Du.

Lực lượng Cảnh Sát Quận Nhì tiếp tục bắn rượt theo đẩy chúng vào hẳn bên trong cao ốc. Ðây là một cao ốc 5 tầng bỏ trống đang xây cất dở trên đường Thủ Khoa Huân. Cao ốc này chỉ cách bờ tường phía Nam Dinh Ðộc Lập chừng 200 thước và cách chợ Bến Thành không quá 800 trăm thước.

Cổng Nguyễn Du được giải tỏa. Bọn Ðặc công VC đã hoàn toàn bị cô lập, không đường thoát thân. Bây giờ chỉ còn anh em Cảnh Sát Quận Nhì bao vây kềm giữ bọn VC trong cao ốc. Tiếng súng trao đổi giữa ta và địch. Màn đêm tiếp tục trong căng thẳng cho cả đôi bên.

Trời vừa hừng sáng, tôi cho lệnh tấn công vào cao ốc. VC bắn trả dữ dội. Cảnh Sát Quận Nhì dùng M-79 và tiểu liên tấn công vào tầng dưới, dồn bọn Ðặc công lên lầu trên. Cảnh Sát từ lầu dưới xông lên, VC từ trên thẩy lựu đạn xuống. Một bên cố thủ, một bên cố vượt lên. Súng và lựu đạn thi nhau nổ. Hai đợt xung phong lên đã làm ba Cảnh Sát Viên bị thương.

Tôi ra lệnh cho nhân viên tạm thời rút ra khỏi tầng dưới để tránh bị sát hại vì lựu đạn từ trên ném xuống. Tôi vào máy báo cáo cho Tướng Loan biết là Dinh Ðộc Lập đã được an toàn trở lại, chỉ còn bán Tiểu đội Ðặc công VC đang bị bao vây và cố thủ tại cao ốc Thủ Khoa Huân.

Tướng Loan cho biết trong đêm giao thừa này VC đồng loạt mở nhiều cuộc tấn công trên toàn quốc. Riêng tại Saigon và các vùng phụ cận: Ngoài Quận Nhì, VC cũng đang tấn công Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ tại Quận Nhất và rải rác tại vài quận khác trong Ðô Thành, tại Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, Sân bay Tân Sơn Nhất, Ðài Phát Thanh Quốc Gia, Căn cứ Quân Cụ và Kho Ðạn tại Gò Vấp, khu Hàng Xanh-Thị Nghè, khu Phú Thọ Hòa, khu Bà Quẹo…

Tại cao ốc Thủ Khoa Huân, tình trạng giao tranh ghìm nhau kéo dài tới 9 giờ sáng. Ðược tôi thông báo tình hình, Tướng Loan cùng hai Sĩ quan Tùy viên của ông là Thiếu Tá Nguyễn Thừa Dzu (BÐQ) và Thiếu Tá Nguyễn Mộng Hùng (ND) từ Tổng Nha CSQG đến thị sát.

Ông chỉ thị tái tấn công lên cao ốc. Ta lại bắn lên, địch bắn xuống. Bọn Ðặc công được thành tường rất dầy và kiên cố của cao ốc che chở. Tôi cùng một số anh em Cảnh Sát băng qua đường Thủ Khoa Huân để tiến vào cao ốc nhưng bị VC từ trên lầu 4 bắn xuống xối xả, phải khựng lại, núp bên hông một chiếc xe Peugeot loại vận tải nhỏ do VC để lại giữa đường Nguyễn Du khi chúng bị tấn công phải chạy dạt vào cao ốc. Thiếu Tá Nguyễn Mộng Hùng (sau này là Trung Tá) chạy tiếp theo tôi đến bên hông xe. Khi tiếng súng VC tạm ngưng, chúng tôi nhóm lên nhìn vào trong xe và cả hai đều giật mình. Trong lòng chiếc xe mui trần có khá nhiều lựu đạn và trên trăm bánh thuốc nổ đã gắn sẵn ngòi nổ. Có lẽ bọn VC định dùng số thuốc nổ này giật sập dinh Ðộc Lập khi chúng vào được bên trong.

Tôi và Thiếu Tá Hùng phóng tới cao ốc. Trên lầu bọn VC bắn xuống tới tấp. Vì không thể tiến lên bằng cầu thang, tôi cho một toán Cảnh Sát bắc thang lên cao bên thành tường cao ốc, tính nhảy vào cửa sổ lầu 4 rồi từ trên đánh xuống đầu địch. Thang vừa dựng lên ngang lầu 3 đã bị VC bắn gẫy. Hai Cảnh Sát Viên bị thương rơi xuống, Thiếu Tá Dzu (sau là Trung Tá) cùng leo lên với Cảnh Sát may mắn thoát nạn.

Việc thanh toán bán Tiểu đội Ðặc công này chỉ kết thúc vào chiều ngày mùng 2 Tết. Sau khi đã di tản đồng bào xa cao ốc, Cảnh Sát bắn lựu đạn cay lên lầu 4, cùng lúc xung phong lên cận chiến. Kết quả, Cảnh Sát một người chết và 4 bị thương. Phía Ðặc công VC: 4 chết và 3 bị bắt sống. Ngoài chuyện cao ốc bị hư hại nặng, nhà cửa dân chúng chung quanh cao ốc chỉ hư hao nhẹ.

Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ rất bực bội về vụ VC vi phạm thỏa ước hưu chiến và tấn công dinh Ðộc Lập. Qua Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan, ông ra lệnh cho tôi lập pháp trường cát tại bùng binh chợ Bến Thành Saigon để xử tử 3 tên Ðặc công vừa bị bắt trước báo chí trong và ngoài nước, có lẽ để thị uy và làm gương. Lệnh này trái với quy chế tù binh nên đã không được tôi thi hành. Tướng Loan vì thương tôi nên bỏ qua nhưng sau này ông cho biết PTT Kỳ rất khó chịu vì sự bất tuân “lệnh xử tử” của tôi. Ðây là một trong những cái khổ của những người Cảnh Sát chuyên nghiệp phải thi hành luật pháp. Không theo lệnh trên sẽ gặp rắc rối, nhưng bất chấp luật pháp mà nhắm mắt thi hành lệnh trên thì chính mình có thể gặp rắc rối.

Bây giờ 40 năm sau, tôi tự hỏi nếu phải thi hành lệnh đó hôm nay, tôi sẽ có hành xử như ngày xưa không, khi mà nhiều chiến hữu của mình đã bị CSVN ngược đãi, đầy ải và trả thù dã man bằng nhiều năm trong các trại cải tạo sau 1975. Dù sao quyết định của tôi trong trận Mậu Thân cũng chứng tỏ được một điều là người Cảnh Sát Quốc Gia Miền Nam tôn trọng và hành xử theo luật pháp, khác hẳn với thói quen sử dụng “luật rừng” và theo lệnh đảng của mấy ông công an miền Bắc. Về mặt chuyên môn và trong tư cách con người, chúng ta xứng đáng hơn và trên chân các “đồng nghiệp” miền Bắc. Soi gương trước lịch sử dân tộc, tôi nghĩ rằng chúng ta có quyền hãnh diện về điều này.

Mậu Thân, đợt 2

Sau khi thất bại qua đợt tấn công đầu vào dịp Tết, VC vẫn không từ bỏ kế hoạch “tổng công kích, tổng nổi dậy” của chúng. VC nghĩ rằng một đợt tấn công thứ hai sẽ có thể lôi kéo dân chúng miền Nam nổi dậy. Họ đã đánh giá sai dân tình miền Nam. Họ vẫn không hiểu được rằng dân miền Nam được sống trong một xã hội tuy chưa hoàn hảo nhưng tương đối tự do và chưa bao giờ thực sự tin theo VC.

Ðợt tấn công Mậu Thân 2, khởi đầu từ ngày 5 tháng 5, 1968. Trong đợt này VC tập trung nỗ lực vào những khu đông dân cư, lựa chọn những địa thế khó xoay trở cho ta. Tại Quận Nhì, chúng đồng loạt xâm nhập và bắn phá tại các khu chợ Cầu Muối, Cầu Kho, khu Ðề Thám-Bùi Viện, là những khu nghèo đông dân cư, nhà cửa chen chúc và đường hẻm chằng chịt khiến cho việc lưu thông hằng ngày và công tác cứu hỏa rất giới hạn và khó khăn.

-Trận Chợ Cầu Muối

Trận đầu tiên trong Ðợt 2 xẩy ra tại khu chợ Cầu Muối là nơi dân chúng bình dân buôn bán cả ngày lẫn đêm. Ðây là trung tâm phân phối rau và trái cây lớn nhất tại Saigon. Các vựa trái cây, sạp hàng và nhà cửa san sát lẫn lộn nhau, đường phố chật hẹp tạo một môi trường lý tưởng cho các vụ náo loạn thường xuyên xảy ra. Trong tình trạng bình thường, Quận Nhì cũng đã tốn nhiều nhân viên Cảnh Sát để kiểm soát và duy trì an ninh trật tự tại đây.

Khai thác điểm thuận lợi này cho ý đồ của chúng, ngày 5-5-1968 VC đã xâm nhập một Tiểu đội Ðặc công vào khu này, gần các đường Cô Giang-Cô Bắc. Khoảng 2 giờ sáng, bọn Ðặc công VC xuất hiện rải truyền đơn và tuyên truyền sách động đồng bào. Toán tuần tiễu được báo động chạy tới bị VC xả súng bắn. Nhân viên bắn trả. Phu khuân vác đêm và bạn hàng các vựa cây hoảng hốt chạy tứ phía. Khi trời hừng sáng nhiều gia đình đã lũ lượt bồng bế nhau chạy khỏi khu VC xâm nhập.

Ðược đồng bào chỉ điểm cho biết nơi ẩn nấp của Ðặc công VC, Cảnh Sát Quận Nhì cho loa phóng thanh kêu gọi đồng bào di chuyển khỏi vùng giao tranh. Tôi chỉ thị Thiếu Tá Võ Văn Ðức, Trưởng Phòng Cảnh Sát Ðặc Biệt Q.2 điều động một toán nhân viên tấn công vào mục tiêu lúc 9 giờ sáng ngày 6-5-1968. Khi gần tới mục tiêu trên đường Cô Giang ngang khu chợ Cầu Muối, VC bắn xối xả vào xe của Thiếu Tá Ðức và toán Cảnh Sát do ông điều động. Việc tấn công của Cảnh Sát trở nên khó khăn khi dân chúng nhào ra chạy loạn. Tôi chỉ thị anh em tìm cách cùng lúc đánh bọc sau lưng. Nhưng diều này cũng không dễ vì ngõ hẻm chằng chịt trong khu này tạo cơ hội che giấu tốt cho VC và khó khăn cho việc truy lùng và tiêu diệt của ta.

Tình trạng ghìm nhau kéo dài suốt buổi sáng ngày mùng 6. Cảnh Sát cố tiến vô trong khi VC tiếp tục bắn cầm chân, gây hoang mang lo sợ trong dân chúng. Ðiều làm tôi phải suy nghĩ nhiều là nếu hỏa hoạn do súng đạn giao tranh giữa hai bên gây ra hoặc do chính VC phóng hỏa để tạo thêm hỗn loạn thì việc cứu hỏa không dễ gì điều động. Ðó là chưa kể VC sẽ không ngần ngại xả súng vào các nhân viên cứu hỏa để duy trì tình trạng náo loạn và kinh hoàng này. VC cũng thừa hiểu rằng vì sợ sinh mạng và tài sản của dân chúng bị hư hại nên nhân viên Cảnh Sát sẽ không dám mạnh tay tấn công vào những nơi chúng đang trú ẩn.

Quả thật, VC đã nắm được chỗ yếu của ta. Ðó là lý do tại sao Cảnh Sát không thể nhanh chóng thanh toán bọn Ðặc công trong khi chúng chỉ có trên dưới một Tiểu đội. Tác chiến trong thành phố không phải là một điều đơn giản khi mà kẻ địch xen lẫn trong dân chúng và, trong nhiều trường hợp, cầm giữ dân chúng làm con tin hoặc bia đỡ đạn cho chúng. Trận Cầu Muối vì vậy phải kéo dài sang tới ngày thứ hai. Trong ngày này, Thiếu Tá Ðức đã bị thương và 2 Cảnh Sát Viên tử thương khi tìm cách tiến gần vào mục tiêu, nơi Ðặc công VC đang rải truyền đơn kêu gọi dân chúng xuống đường.

Trong khi đó thì hai mặt trận khác cũng nổ ra trong Quận Nhì. Vì Quận Nhì nằm ngay trung tâm của Saigon nên báo chí và các đài phát thanh thường xuyên bám sát Cảnh Sát trong các trận đánh. Những lời tường thuật của họ đôi khi quá sôi nổi, gây thêm hoang mang và lo sợ trong dân chúng.

– Trận Cầu Rạch Bần

Song song với mặt trận thứ nhất tại khu Chợ Cầu Muối, mặt trận thứ nhì xảy ra tại vùng Cầu Kho dọc theo đường Chương Dương và sông Cầu Ông Lãnh. Ðậu dọc bờ sông này là hàng trăm chiếc ghe lớn bé chuyên chở rau trái và các nhu yếu phẩm từ lục tỉnh về Saigon và ngược lại. Họ thường chỉ đậu tạm trú tại bờ sông này trong ít ngày để xuống và nhận hàng, hầu hết không phải là dân cư trú thường xuyên nên việc kiểm soát rất khó khăn. VC đã lợi dụng điểm này để xâm nhập và chuyển vận vũ khí vào Ðô Thành.

Vào giữa tháng 6-1968, trong một cuộc hành quân Cảnh Sát hỗn hợp giữa Quận Nhì và Cảnh Sát Ty Hải Cảng, ta đã khám phá một ghe lớn chuyên chở nhiều ký chất nổ, hàng trăm trái lựu đạn và tiểu liên AK-47 và rất nhiều súng lục K-54 được cất giấu dưới nhiều lớp trái cây trong lòng ghe từ lục tỉnh về. Số thuốc nổ và vũ khí này nếu không được kịp thời phát hiện thì không biết sẽ còn bao nhiêu vụ nổ và bao nhiêu sinh mạng người dân Ðô Thành bị VC sát hại.

Tại mặt trận Cầu Kho. Ðêm mùng 6 tháng 5, một toán VC gồm 9 tên xâm nhập bằng đường ghe từ lục tỉnh về ẩn núp dưới gầm cầu Rạch Bần và xả súng tấn công vào Chi Cảnh Sát Cầu Ông Lãnh dọc theo bờ sông. Bị Trung Úy Trần Hậu điều động nhân viên chống trả dữ dội, bọn đặc công VC phải rút lui về núp dưới cầu Rạch Bần và xả súng bắn loạn xạ dọc theo bờ sông Cầu Ông Lãnh và đường Chương Dương.

Ðai Úy Oanh, một Sĩ quan gốc Thiết Giáp phục vụ tại Quận Nhì được tôi chỉ định đem một Trung Ðội Cảnh Sát đến giải tỏa cầu Rạch Bần. Trục tiến quân dọc theo đường Chương Dương bị VC từ mố cầu dùng B-40 và AK-47 trực chỉ bắn xối xả khiến Ðại Úy Oanh phải khựng lại. VC cứ tiếp tục bắn bừa bãi mà ta thì e dè vì sợ gây tổn thương cho dân chúng. Do đó, dù chỉ một đoạn đường không quá một cây số mà phải mất gần hết một buổi sáng mới tiến được tới gần mục tiêu. Sau cùng thì mục tiêu này cũng được thanh toán. Ta chiếm lại được cầu Rạch Bần với 4 nhân viên Cảnh Sát bị thương. Sáu Ðặc công, trong đó có 2 nữ cán binh VC, tử thương tại chỗ, 3 đầu hàng bị ta bắt giữ.

Trở lại mặt trận chợ Cầu Muối, VC tiếp tục cầm chân một số đồng bào và chống trả dữ dội. Trận chiến đã sang đến ngày thứ hai. Cảnh Sát Quận Nhì đã có hai nhân viên bị thương và hai tử thương, nhưng rất may nhà cửa trong khu này chưa bị cháy. Tôi nghe tiếng Tướng Loan la hét trong máy. Ông tỏ ra sốt ruột và liên tục hối thúc các Trưởng Ty Cảnh Sát trong Ðô Thành phải sớm thanh toán các mục tiêu.

Tiếng súng vẫn tiếp tục nổ tại nhiều nơi. Quận Tư vùng Khánh Hội, Quận 5 khu Trần Nhân Tôn, Quận 3 khu Chùa Bà Lớn gần đường Nguyễn Thiện Thuật, Quận Nhất khu Phan Ðình Phùng-Nguyễn Bỉnh Khiêm gần Ðài phát thanh, Gò Vấp Kho Quân Cụ, khu Phú Thọ Hòa vùng Gia Ðịnh đang đồng loạt bị VC tấn công. Vài nơi tại vùng Khánh Hội và Chợ Lớn đã bắt đầu bốc cháy.

Quận Nhì thì 3 mặt trận đang sôi động cùng một lúc. Không thể để cho trung tâm Ðô Thành tiếp tục rối loạn, Tướng Loan quyết định tăng phái cho tôi một Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân do Ðại Úy H. chỉ huy. Tôi bàn với Ð/Úy H. phương cách tiến quân chiếm lại vùng Cô Giang và chợ Cầu Muối. Ð/Úy H. muốn tấn công mạnh bạo và chớp nhoáng vào mục tiêu với súng nặng và lựu đạn. Ông cho biết không chấp nhận tiến quân kiểu từ từ để binh sĩ của ông bị bắn sẻ trong khi không nhìn thấy VC ẩn núp nơi đâu.

Tôi thông cảm nhiệm vụ và lối suy nghĩ của Ðại Úy H. khi phải đối đầu với địch quân ngoài trận địa nhưng không đồng ý với ông về phương thức tác chiến đó vì đây là trong thành phố, VC trộn lẫn với dân, nhà cửa san sát nằm giữa những con hẻm chằng chịt. Không thể dùng hỏa lực mạnh để áp đảo đối phương mà không gây thiệt hại tài sản và sinh mạng của dân chúng đang kẹt trong đó. Tôi cám ơn Ð/Úy H. và quyết định trả Tiểu Ðoàn BÐQ này lại cho Tướng Loan để ông sử dụng cho mặt trận Trần Nhân Tôn trong Chợ Lớn đang có đụng độ lớn.

Cảnh Sát Quận Nhì tiếp tục đánh theo kiểu Biệt Kích, từng toán nhỏ xâm nhập mục tiêu để tiêu diệt Ðặc công VC. Phải mất thêm một ngày nữa mới thanh toán được mục tiêu và vãn hồi an ninh vùng chợ Cầu Muối. Lại thêm 3 Cảnh Sát Viên nữa bị thương. Nhà cửa trong vùng tuy bị hư hại phần nào nhưng không bị hỏa hoạn. Riêng căn nhà lầu bị VC đóng chốt thì hư hại gần như hoàn toàn.

– Trận đường Ðề Thám

Mặt trận thứ 3 trong đợt Mậu Thân 2 tại Quận Nhì phát nổ tại một hẻm dài ăn thông ra đường Ðề Thám. Ðây cũng là một khu lao động dân chúng sống chen chúc trong nhiều ngõ ngách đường hẻm quanh co. Tại đây, 4 tên Ðặc công VC chiếm giữ một căn nhà nhỏ nằm ngay đầu hẻm mà lối đi vào duy nhất là đường Ðề Thám. Ðường hẻm rộng không quá 3 thước bề ngang, vì vậy trấn cứ đầu hẻm là VC kiểm soát được suốt con hẻm từ trong ra đến đường Ðề Thám. Bọn VC từ trong đầu hẻm bắn ra gây thương tích cho nhiều người qua lại trên đường Ðề Thám. Giao thông bị tắc nghẽn. Dân chúng dọc con hẻm bồng bế nhau chạy loạn. Cảnh Sát không sao lọt được vào con hẻm độc đạo này.

Vừa thanh toán xong mục tiêu ở cầu Rạch Bần, tôi phóng tới khu Ðề Thám để quan sát. Cũng như tại các nơi khác, VC bắn ra bừa bãi bất kể dân chúng. Từng tràng tiểu liên AK-47 được bắn ra đầu hẻm, lâu lâu kèm theo vài trái B-40. Ðã có vài người dân bị thương. Báo chí săn tin bám theo Cảnh Sát, phóng viên truyền thanh trực tiếp loan tin làm cho tình hình thêm gây cấn và căng thẳng. Tôi điều động một toán Cảnh Sát xung phong vô nhưng phải dội ngược ra. Cánh tay phải tôi bị bắn trúng, máu tuôn xối xả. Vết thương được tạm thời băng bó, tôi vẫn chưa nghĩ ra cách nào để thanh toán được mục tiêu. Tôi có thể cho lệnh dùng súng phóng lựu M-79 bắn vô, nhưng còn dân chúng kẹt trong đó thì sao? Hai bên ghìm nhau nhiều tiếng đồng hồ, trong bắn ra, ngoài không vô nổi.

Trên máy Chuẩn Tướng Loan hối thúc phải thanh toán Tổ Ðặc công địch vì sợ để lâu chúng sẽ phóng hỏa khu lao động này tìm đường tẩu thoát. Lại nữa, nếu hỏa hoạn xẩy ra trong khu nhà ổ chuột này thì ngọn lửa sẽ mau chóng lan rộng, khó mà dập tắt, gây thêm hoang mang náo loạn trong dân chúng. Việc này chắc chắn sẽ bị các cơ quan thông tấn ngoại quốc khai thác và loan đi những tin tức bất lợi.

Bọn VC hiện đang kiểm soát dọc con hẻm trống và tiếp tục bắn phủ đầu. Dù bị Tướng Loan hối thúc, tôi không thể lại đẩy nhân viên vào một địa thế hoàn toàn bất lợi trước họng súng địch mà không có bất cứ một chướng ngại vật nào che chắn. Thật nan giải.

Tôi bất chợt nghĩ tới thùng lựu đạn “simulator” tôi vẫn giữ trong văn phòng. Thùng lựu đạn này do một người bạn Sĩ Quan tại trường Bộ Binh Thủ Ðức cho tôi đã lâu. Ðây là loại lựu đạn thực tập có vỏ bằng cạc tông dày, dùng để huấn luyện sinh viên sĩ quan tại các quân trường. Khi ném ra, trái “simulator” này có tiếng nổ lớn như lựu đạn thật nhưng không có miểng sát hại. Tôi suy luận rằng khi nghe tiếng lựu đạn nổ lớn gần mình thì phản ứng tự nhiên của bất cứ chiến binh nào cũng là nằm xuống để tránh miểng và như vậy là trong vòng vài giây nếu ta có thể tới gần địch tấn công bất thần và tới tấp thì có nhiều hy vọng tiêu diệt được địch trước khi chúng kịp phản ứng.

Tôi quyết định thí nghiệm chiến thuật này. Tôi gọi sáu nhân viên trẻ, lanh lẹ đến và giải thích ý định của tôi. Tôi ném thử một trái lựu đạn thực tập “simulator” ngay cạnh chân không quá 2 thước và đứng im để nhân viên thấy lựu đạn nổ lớn mà không gây thương tích gì cho tôi. Chiến thuật tấn công mới bắt đầu: Tôi cho ném một loạt lựu đạn “simulator”. Tám trái liên tiếp nhau nổ như trời sụp trong khi tôi và 6 Cảnh Sát Viên Quận Nhì tông vào đường hẻm nhắm thẳng mục tiêu nhả đạn. Bốn tên Ðặc công chưa kịp ngóc đầu phản ứng đã bị hỏa lực của anh em Quận Nhì tiêu diệt.

Trận này được một Phóng viên Quân Ðội tường thuật lại trong tập tài liệu “Tổng công kích-Tổng khởi nghĩa của VC-Mậu Thân 1968” do Khối Quân Sự thuộc Bộ Tổng Tham Mưu ấn hành. Sau này, một sĩ quan thuộc Khối Quân Huấn có hỏi tôi chi tiết sự việc để nghiên cứu thêm, coi đó như một trong những chiến thuật tác chiến trong thành phố.

Trong năm Mậu Thân, ngoài những vụ khác như bọn VC nằm vùng rải truyền đơn tại chợ Bến Thành hoặc vụ VC gài lựu đạn tại Thượng Nghị Viện gần Bến Bạch Ðằng mà Quận Nhì đã mau chóng tháo gỡ, Quận Nhì trung tâm thành phố đã phải hứng chịu nhiều hỏa tiễn pháo kích của VC. Cứ mỗi lần có pháo kích là nhân viên Quận Nhì lại vất vả. Gần như lần nào cũng có cháy nhà, người chết, người bị thương. Nhân viên tuần tiễu hối hả ngược xuôi lo giữ an ninh, lo phụ việc cứu hỏa, lo cấp cứu và tải thương đồng bào bị nạn.

Trong suốt năm Mậu Thân, nhân viên Quận Nhì phải cắm trại liên miên. Tôi và các Sĩ Quan trách nhiệm phải ứng trực ngày đêm tại đơn vị. Vừa lo chống VC xâm nhập, vừa lo việc cứu cấp khi có pháo kích. Hai phòng Hoạt Vụ và Cảnh Sát Ðặc Biệt phải phối hợp với Ðặc Khu Quận Nhì tổ chức hành quân Cảnh Sát liên miên mỗi đêm.

Mậu Thân quả là một năm căng thẳng và vất vả cho tôi và tất cả nhân viên Quận Nhì. Phải nói rằng các Sĩ Quan và nhân viên Cảnh Sát Quận Nhì nói chung đã rất can đảm, tháo vát và tận tụy hy sinh, quyết bảo vệ sinh mạng và tài sản của dân chúng. Nhờ sự tận tụy và hy sinh đó mà Quận Nhì đã mau chóng thanh toán được các toán Ðặc công xâm nhập không để chúng có cơ hội gây hỏa hoạn và nhiều thiệt hại cho dân chúng như tại một số nơi khác trong Ðô Thành.

Vào cuối năm 1968, đại diện các phường, khóm tại quận nhì và vài vị dân biểu đã đích thân đến Ty Cảnh Sát Quận Nhì trao tặng Bảng Ghi Ơn và thăm viếng, ủy lạo gia đình các cảnh sát viên tử thương trong 2 đợt tấn công Mậu Thân. Biến cố Tết Mậu Thân đã cho thấy tinh thần “Cảnh Sát là Bạn Dân” và thể hiện rõ tình Quân-Dân gắn bó.

Nhắc lại trận Mậu Thân, chúng ta cũng không thể quên được lòng tận tụy và gương can đảm của vị tướng chỉ huy ngành cảnh sát thời bấy giờ là Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan. Là tổng giám đốc cảnh sát, có dưới tay gần 100,000 sĩ quan và nhân viên trên toàn quốc, Tướng Loan có thể ngồi trong Tổng Nha để chỉ thị và điều động thuộc cấp chống trả VC trong hai đợt tấn công tại các đô, tỉnh, thị trên toàn quốc. Nhưng ông đã đích thân sát cánh cùng anh em cảnh sát chiến đấu trong thành phố nơi hiểm nguy không thể tính trước vì thường thì địch là những toán đặc công quyết tử ẩn nấp kỹ và trộn lẫn trong dân chúng. Ðịch thấy ta mà ta khó thấy địch. Tướng Loan đã bị bắn bị thương ở chân tại khu Nguyễn Bỉnh Khiêm, gần Ðài Phát Thanh Saigon trong khi ông đang điều động cảnh sát chiến đấu.

Sự có mặt của Tướng Loan làm binh sĩ lên tinh thần, nhất là những nhân viên cứu hỏa tại Ðô Thành. Họ bị VC nhắm bắn nhưng vẫn lao vào chữa lửa vì có Tướng Loan bên cạnh. Không có Tướng Loan chỉ thị cảnh sát ứng trực 100% để phản ứng kịp thời trong dịp Tết Mậu Thân, Ðô Thành Saigon chắc khó đứng vững được trong 2 trận tấn công và số thiệt hại, thương vong chắc chắn sẽ còn cao hơn nhiều.

Xin được kính cẩn nghiêng mình trước vong linh Thiếu Tướng Tư Lệnh Nguyễn Ngọc Loan và các sĩ quan cảnh sát: Ðại Tá Ðàm Văn Quý (Tổng Nha CSQG), Trung Tá Lê Ngọc Trụ (Trưởng Ty CSQG Quận 5), Trung Tá Nguyễn Văn Luận (Giám Ðốc Nha Cảnh Sát Ðô Thành), Thiếu Tá Nguyễn Văn Xinh (Nha Cảnh Sát Ðô Thành) và các sĩ quan, nhân viên cảnh sát khác đã tử thương trong 2 trận Mậu Thân 1968.

Hồi tưởng lại biến cố Tết Mậu Thân, tôi cũng xin được đặc biệt cám ơn các sĩ quan và nhân viên Ty Cảnh Sát Quốc Gia Quận Nhì Saigon đã can đảm và tận tụy hy sinh bảo vệ dân chúng. Tôi rất hãnh diện đã được chỉ huy và sát cánh cùng các bạn. Xin được đốt nén hương lòng trước vong linh các chiến hữu Cảnh Sát Quận Nhì đã hy sinh trong Trận Mậu Thân.

Trần Minh Công
Nguyên Trưởng Ty CSQG-Quận Nhì.

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Đón Xuân Nầy Nhớ Xuân Xưa . Hoàng Tuấn sưu tầm

Quỹ K1 đầu năm 2024

Xin thông báo đến các bạn: Trong dịp đầu năm Dương Lịch và Âm Lịch vừa qua, Quỹ K1-HVCSQG đã nhận được sự ủng hộ thêm vào Quỹ của các bạn sau:

– AC Phạm Văn Minh (CA): $200 (ủng hộ $100 X 2 lần  – tháng 12/23 và tháng 2/24)
– Lê Văn Thao (TX):              $100
– Lê Ngọc Thịnh (NC):          $50
– Nguyễn Văn Tâm (CA):      $50

Xin cám ơn Quý AC MTQ K1 đã hỗ trợ cho Quỹ K1.

*  Tính đến nay số tiền Quỹ K1 hiện còn tồn Quỹ là $1523.
(Chi tiết các Chi – Thu sẽ báo cáo các bạn sau).

Thân mến,

NĐ. Toán

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Quỹ K1 đầu năm 2024

Thương Tiếc K1 Phạm Bá Nhạc

Vòng hoa tang và Phân Ưu của K1 (trên báo Viễn Đông) trong tang lễ k1 Phạm Bá Nhạc Tại Escondido (CA) ngay 17/2/2024.

TN

1PBN

2PBN

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở Thương Tiếc K1 Phạm Bá Nhạc

TPK Khai Bút Đầu Năm

CHÚC TẾT GIÁP THÌN

Presentation1

Khai bút tân niên chúc mọi người
Giáp Thìn gia đạo được vui tươi
Ông bà trường thọ cùng gia tộc
Cha mẹ an vui với cuộc đời
Con cháu học hành luôn tấn tới
Vợ chồng hạnh phúc chẳng hề vơi
Mỗi ngày kinh tế càng thêm vững
Ước nguyện quanh năm lắm lộc trời.

TPK

Đăng tải tại Tin Tuc Nội Bộ | Chức năng bình luận bị tắt ở TPK Khai Bút Đầu Năm