
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.” (Nguyễn Du)
Năm 1966, thời đệ nhị Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam, chiến tranh giữa hai miền đất nước Bắc Nam ngày càng khốc liệt. Do nhu cầu của Ngành Cảnh Sát, và cũng là sáng kiến của Tổng Giám Đốc CSQG thời bấy giờ là Đại Tá Phạm Văn Liễu muốn cải tổ nhân sự, đào tạo một thế hệ sĩ quan Cảnh Sát trẻ trung, có học thức, nên đã ra lệnh tuyển dụng hàng trăm nhân viên có trình độ học vấn từ Tú tài I trở lên. Đặc biệt, sự tuyển dụng này, ngoài nam còn có cả nữ. Họ sẽ được đào tạo để trở thành các Biên Tập Viên và Thẩm Sát Viên của Ngành. Thế nên Khóa Nữ Sĩ Quan Cảnh Sát của Học Viện đã ra đời từ đó.
Tôi nhớ thời đó vừa dời ghế nhà trường, còn loay hoay chưa biết chọn cho mình một hướng đi, một công việc làm thích hợp để mưu sinh. Không hiểu sao cha tôi biết được thông báo tuyển dụng sĩ quan cho Ngành Cảnh Sát nên đã nói tôi nộp đơn. Với những điều kiện khá tốt, chẳng hạn như mức lương và được làm việc gần gia đình sau khi ra trường,v.v… nên tôi đã nghe lời khuyến khích của cha tôi mà nộp đơn dự tuyển.
Nhưng tưởng dễ mà không phải dễ. Chúng tôi phải trải qua một kỳ thi văn hóa về các môn chính, gần tương tự như kỳ thi Tú Tài thời đó. Sau đó còn bị khảo sát về ngoại hình, nhân dáng. Sau khi nhận được giấy báo đậu kỳ thi văn hóa, tôi được phòng tuyển dụng thông báo cho biết ngày giờ đến phỏng vấn.
Đám nữ chúng tôi gặp nhau ở Tổng Nha Cảnh Sát, trong một căn phòng rất rộng. Chúng tôi ngồi trên những dãy ghế ở đầu phòng để chờ đợi người phụ trách gọi tên từng người phỏng vấn. Bàn làm việc của họ có ba, bốn người đặt tuốt tại cuối phòng. Họ kêu tên từng cô thí sinh dời “gót ngọc” đi từ đầu phòng tới cuối phòng (mãi sau này tôi mới biết) để cho họ quan sát “chấm điểm” nhân dạng. Thật tình mà nói, thời đó con gái chúng tôi – nữ sinh và nữ sinh viên – vừa dời ghế nhà trường, tuổi vừa ngoài đôi mươi, ai cũng còn mộc mạc, giản dị lắm. Ngoài tà áo dài tha thướt, tóc tai vén khéo (không kiểu cọ), chưa biết trang điểm nhiều, cô nào xí xọn lắm thì cũng chỉ sương sương thôi. Ngoài nhan sắc ra, các vị còn chú ý tới chiều cao giống như bên hàng không. Ôi, nếu tôi giỏi ngoại ngữ thì đã đầu quân vô ngành này để mơ ước được bay bổng “đi mây về gió” như mấy cô chiêu đãi viên hàng không hồi đó rồi.
Cuối cùng một lớp nữ khóa sinh Khóa 1 Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia đã được hình thành với 48 cô gái xuất xứ từ mọi miền đất nước; từ Huế, Nha Trang, Đà Lạt cho tới Sài Gòn, Tiền Giang, Hậu Giang,… Tất cả được quy tụ tại Học Viện CSQG (vừa được thành lập) để được đào tạo và dấn thân. Chúng tôi được sắp xếp ăn ở nội trú ở Nha CSQG Đô Thành, trên tầng lầu I của một building. Riêng các nam khóa sinh Khóa 1 khoảng 400 anh, nội trú tại HVCSQG trong Trại Lê Văn Duyệt / Saigon.
Đến giữa tháng 3-1966, buổi lễ khai giảng Khóa 1 đã được long trọng cử hành tại sân cờ Học Viện CSQG (Trại LVD) với hơn 400 nam nữ khóa sinh, có Tướng NCK và Đại Tá Phạm Văn Liễu chủ tọa.
Khóa học bắt đầu bằng 3 tháng học Quân sự, tập đi dứng diễn hành, chào kính, học bắn súng lục, súng trường,… Trong một buổi tập bắn súng tại xạ trường Khối Huấn Luyện, chúng tôi đã gặp người đẹp Đặng Tuyết Mai, hoa khôi của chiêu đãi viên hàng không của Air Vietnam khi đó đã là phu nhân của Tướng NCK (Chủ Tịch UBHPTƯ tức Thủ tướng thời bấy giờ), cũng đến xạ trường này tập bắn.
Sau 3 tháng học quân sự, chúng tôi được lên lớp học các môn chuyên Ngành chung với các khóa sinh nam. Chúng tôi được học đủ các môn, càng học tôi càng cảm thấy chức năng của Ngành Cảnh Sát là đa năng, đa dạng; không chỉ đơn giản là giữ gìn trật tự, an ninh, giao thông đường phố như tôi tưởng.
Giảng viên các môn học là các vị khả kính trong và ngoài Ngành, nhiều kinh nghiệm và thông thạo luật pháp. Trong số các vị đó có cố Viện Trưởng Đàm Trung Mộc mà chúng tôi hay gọi là cha già. Mặc dù bài học thì khô khan, nhưng với kiến thức uyên bác, trong giờ học của ông, chúng tôi vẫn say mê theo dõi từng lời nói giảng giải ý nhị, sâu sắc, dí dỏm của ông. Các giảng sư khác như Nguyễn Văn Canh, Nguyễn Xuân Lại và các ông Quận Trưởng trẻ, mỗi người đều có một cách dẫn giải, truyền đạt các môn học hoàn toàn mới lạ, lôi cuốn. Một vị giảng sư mà chúng tôi rất thích thú là Thầy Vũ Văn Dần phụ trách giảng dạy môn Kiểm Soát Tài Nguyên. Một ông Thầy khác là Quận Trưởng TQN, vì ông còn trẻ lại “độc thân vui tính” có lẽ chỉ hơn chúng tôi chừng năm, bảy tuổi nên thường hay bị chúng tôi chọc phá. Ông dạy chúng tôi môn Hình Luật. Khi dạy, ông hay chen vào bài giảng những mẩu chuyện về “Bao Công Xử Án” nên chúng tôi gọi ông là Bao Công. Sau buổi học, khi về lại phòng, chúng tôi còn “tám” với nhau: “Bao Công thời xưa nghiêm nghị, mặt sắt đen xì, còn ông Bao Công này trắng trẻo, mặt búng ra sữa.” Nói rồi chúng tôi phá ra cười.
Sau mấy tháng học tập, chúng tôi dần dần quen biết nhau, sống hòa đồng trong môi trường tập thể, một thế giới phụ nữ thu nhỏ. Ngoài một vài dị biệt không đáng kể, tình thân nảy nở giữa các cô gái của ba miền đất nước. Có những gương mặt đặc biệt chúng tôi còn giữ mãi những kỷ niệm cho đến tận bây giờ. Như Chị Kim Hạnh tháo vát, năng nổ, hay phát biểu, được cho biệt danh “Chị Hai”. Hạnh Hà, cô gái miền Nam, gương mặt hiền hòa, giọng nói đôn hậu, chân chất. Hạnh Trần hay “Hạnh Mắt Nhung”, người đẹp xứ Huế, có đôi mắt nhung huyền bí. Thanh Phụng, cô “công chúa Sissi”. Liềm, người đẹp mảnh mai như liễu rũ ven hồ. Khánh Hòa, mắt nai to, dáng cao gầy như người mẫu. Chị Lành mặc dù bị gọi là “Elephant” nhưng giọng nói lại nhỏ nhẹ dễ mến. Thanh Thủy, nữ sinh viên Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt, đã từ bỏ sân trường đại học để gia nhập K1 Học Viện, để sau này trở thành một cấp chỉ huy tài năng của Thiên Nga. Nguyệt Ánh với vóc dáng cao lớn, trắng trẻo nên luôn được xếp đứng hàng đầu. Và còn nhiều nữa, không thể không nhắc đến giọng ca xứ Huế truyền cảm Cẩm Y với “hàng hàng lớp lớp…”, rồi Út Loan, cô bạn cùng Trường Trưng Vương với tôi không hẹn mà gặp nhau tại nơi này; và v.v… Tóm lại, mỗi người mỗi vẻ, cô nào cũng hiền lành, dễ thương; vậy mà lại chọn con đường đầy gian nan là Ngành Cảnh Sát. Sau ngày Miền nam sụp đổ, chúng tôi đã phải trả giá bằng những năm tháng tù đày đầy nghiệt ngã.
Sau thời gian huấn luyện 6 tháng hoặc 9 tháng, chúng tôi lần lượt ra trường, được phân bổ theo nguyện vọng cá nhân hoặc nhu cầu công vụ đến những đơn vị. Đã có những mối tình nảy nở trong thời gian học hoặc làm việc chung giữa các nam nữ khóa sinh chúng tôi.
Ở khắp nơi, chiến tranh Quốc Cộng vẫn tiếp diễn, ngày một gia tăng cường độ. Dù ở nông thôn hay thành thị, không gian luôn nhuốm màu bất an, thế nhưng ở những nơi ấy, tình yêu vẫn có cơ hội phát triển và nảy sinh. Đã có những cặp đôi trong khóa chúng tôi được gắn kết với nhau bằng những đám cưới sau ngày ra trường. Họ đã quen nhau, yêu nhau từ trước hoặc sau khi vào Học Viện; nhưng cũng có những đôi lứa tìm đến nhau sau một thời gian làm việc trong ngành. Tính ra đã có nhiều cặp đôi kết hợp với nhau thật là vui vẻ, hạnh phúc mà bạn bè gọi đùa là họ “cộng chỉ số”. Như những cặp đôi Hạnh/Quý, Cẩm Y/Phi, Máy/Quang, Thu Thủy/Hiệp Vân, Lành/Lê Lang, Loan/Hải, Kiêm Chi/Tính, Hường/Hồng, Cẩm Vân/Liên, Chích/Kim Hạc, Sum/Lộc, Sum/Túc, Liềm/Lượng, Dung/Đình Toán,… Còn nhiều nữa, không nhớ hết. Hồi đó, tôi còn nghe tin hành lang, cấp trên hứa hẹn rằng, nếu chúng tôi “cộng chỉ số” với nhau thì sẽ có tưởng thưởng để khuyến khích. Nếu chuyện đó mà áp dụng thật thì ngân sách dành cho những cặp đôi này chắc sẽ tốn khá bộn bạc vì tính sơ sơ đã có trên một chục cặp.
Cuộc tình của cặp đôi chúng tôi đến cũng thật tình cờ, bắt nguồn từ cuốn báo ĐN của cựu SVSQ Học Viện CSQG. Tôi làm việc ở trong Bộ Tư Lệnh, hai năm sau ngày ra trường, một ngày nọ, có người bạn đưa cho tôi một tờ ĐN trong đó tôi chú ý đến một cái tên họ lạ tác giả của những bài thơ văn in trong báo. Nhưng tôi cũng chỉ xem xong rồi thôi. Một hôm, chính người ấy đến làm quen với tôi đi cùng một anh bạn cùng khóa. Tôi không biết rằng anh đang đi xem mắt tôi. Sau này khi đã quen nhau, tôi hỏi anh: “Anh làm việc mãi trên Học Viện Thủ Đức, nguyên do nào đã đưa tôi vào tầm ngắm của anh?” Anh trả lời: “Chính người bạn thân của anh bảo với anh rằng, có một con nhỏ Khóa I, giống lai, Bắc Kỳ, chắc hạp với mày đó.” Tôi cười, té ra là có ông Tơ bắc cầu cho chúng tôi đến với nhau.
Tiếp theo là những gặp gỡ, hẹn hò những ngày cuối tuần. Thời gian anh đi Mỹ tu nghiệp đong đầy kỷ niệm, nhớ nhung. Do nhu cầu công vụ, tôi được thuyên chuyển lên HV Thủ Đức làm việc gần anh, cùng đồng hành những chuyến xe buýt đi về giữa Sài Gòn – Thủ Đức. Những buổi chiều, sau giờ làm việc chúng tôi cùng nhau sóng đôi trò chuyện trên con đường nhỏ trải đá sỏi đỏ, xa kia là những cao ốc, văn phòng làm việc của một Học Viện CSQG mới khang trang, uy nghi mà không kém phần thơ mộng trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú lộng gió. Một thời gian sau, tôi đổi về Saigon, rồi anh cũng về theo. Tháng 4 năm 1973, chúng tôi cùng nhau lập một mái ấm gia đình và một năm sau nữa thì có một bé trai ra đời. Hạnh phúc ngắn ngủi đó chưa bao lâu thì ngày đau thương 30/4/1975 ập đến, khiến chúng tôi phải xa nhau gần bảy năm.
Tháng Tư 1975, miền Nam Việt Nam sụp đổ. Đất nước thay bậc đổi ngôi. Con người cũng bị vùi dập trước phong ba bão tố của thời cuộc. Tôi trở thành nữ tù rồi vợ tù. Vợ chồng con cái chia xa. Cả Miền Nam chìm trong đau thương tang tóc.
Giờ nghĩ lại như một cơn ác mộng triền miên. Qua bao năm tháng bị giam cầm, hứng chịu đòn thù của những người bên thắng cuộc, nhiều anh K1 đã nằm xuống trong lòng đất Mẹ, người thì trở về trong thân hình tiều tụy xác xơ. Chúng tôi về lại xã hội nhốn nháo như một nhà tù lớn, ngơ ngác lạc lõng ngay chính tại nơi xưa kia mình đã sinh sống. Cô bạn Khánh Hòa xum họp cùng chồng và hai con mới được ít lâu, đã lâm bạo bịnh nằm xuống, để lại bao thương tiếc cho gia đình và bạn bè.
Đối với những người bên thắng cuộc, chúng tôi là “thành phần ác ôn”, không thể nào sống chung với họ nên đành gạt lệ rời bỏ người thân, quê hương ra đi tìm tự do nơi xứ người. Một số đã bỏ mình trong rừng sâu, biển cả. May mắn, chúng tôi đã đến được bến bờ tự do mà không phải trải qua những hiểm nguy như bao bạn bè trước.
Thời gia đầu trên xứ tạm dung, cũng như bao gia đình khác, gia đình chúng tôi đã cố gắng vượt qua bao khó khăn bằng đủ mọi công việc tay chân lẫn trí óc để mưu sinh vì tương lai các con. Dần dà, thế hệ thứ hai con cái chúng tôi lớn lên, được giáo dục và trưởng thành, hòa nhập trong một xã hội văn minh, tự do và dân chủ. Chúng tôi có những người bạn bản xứ tốt bụng, giàu lòng nhân ái, sẵn sàng giúp đỡ thật đáng tri ân. Nếu còn ở lại trong nước, con cái chúng tôi chắc chắn sẽ bị phân biệt đối xử, kỳ thị lý lịch, hạn chế đường sinh sống. Muốn được sống còn, phải biết bon chen, mánh mung giữa chợ trời, không biết chúng tôi có làm nổi hay không. Cảm ơn đất nước Hoa Kỳ, chúng tôi mang ơn dân tộc Mỹ suốt cuộc đời.
Ngày các con trưởng thành thì chúng tôi cũng đã già. Ngẫm lại, sau nhiều năm cầy sâu cuốc bẫm, tạo dựng mái ấm gia đình cho mình và cho các con; sẽ có một ngày các con khôn lớn, có vợ có chồng, xa cha mẹ; chỉ còn lại hai cây sậy già, nhưng chúng tôi vẫn vui và mãn nguyện khi nhìn các con sống vững và hạnh phúc. Dù ngày được buông tay cày để nghỉ ngơi thì lưng đã còng, chân đã mỏi (chân đau chân yếu), ai cũng có cái chứng chỉ 3 Cao 1 Thấp. Cho nên sẽ không ngạc nhiên khi thấy các ông, các bà dù đã lên chức Nội, Ngoại mỗi khi gặp nhau vẫn cứ vui như Tết. Người nào tuổi tác cũng đều trên dưới bảy bó nhưng gặp nhau thì cứ như cá gặp nước. Các anh thì mày mày, tao tao, đùa rỡn như trẻ thơ khiến cho mấy đứa cháu nội (ngoại) trố mắt ngạc nhiên. Sao ngày thường thấy ông lặng lẽ, im lìm, trầm tư; nay sao ông sôi nổi, ba hoa chích chòe đến thế. Các bà cũng chẳng kém, bà bà, tôi tôi điểm danh xem ai còn ai mất, bùi ngùi nhắc lại kỷ niệm xưa “niềm đau dĩ vãng”. Có những cặp đôi đã nửa đường gãy gánh, cũng có những cặp đôi phải chia lìa người ở lại kẻ ra đi miên viễn. Ngẫm nghĩ như vậy nên mỗi khi có dịp hội ngộ cùng nhau thì không thể nào bỏ qua. Ngày kỷ niệm hội ngộ 50 Năm Học Viện CSQG vào tháng 7 sắp tới là một cơ hội mà mọi người đang mong đợi. Chúng tôi ước mơ một ngày không xa sẽ được trở về quy tụ dưới mái trường Học Viện năm xưa, nơi đã in dấu chân của những lứa đôi tình nhân cũ 50 năm trước.
Tôi viết bài viết này giữa tháng năm-2016 khi mà người dân trên quê hương tôi biểu tình vì biển bị nhiễm độc, cá chết, hạn hán, biển mặn xâm thực,… Ôi thật đau đớn cho số phận dân đen mấy chục năm nay sống khổ dưới ách cai trị của những cái đầu ngu và hèn, bán nước hại dân. Để kết thúc, tôi xin mạn phép tiền bối, nhái theo bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Nhớ tới đồi Tăng* bóng xế tà,
Trường xưa đã mất cách chia xa.
Lang thang dưới phố vài anh bạn,
Ngơ ngác nơi kia mấy chị nhà.
Cá chết đau lòng nơi cố quốc,
Gạo cơm rối trí chốn ta bà.
Nỗi niềm ai thấu hay chăng tá ?
Biết tỏ cùng ai để nói ra.
VY THỤY
* Đồi Tăng Nhơn Phú, Thủ Đức
Bài này đã được đăng trong
Tin Tuc Nội Bộ. Đánh dấu
đường dẫn tĩnh.
Bạn phải đăng nhập để bình luận.