Tết Quê Hương
ĐOÀN NGỌC NAM
Đã bao mùa xuân đi qua, xuân nào cũng vẫn là xuân. Nhưng không biết tại sao để lại trong tôi nhiều suy nghĩ và cảm xúc khác nhau. Đó phải chăng là tâm lý làm ảnh hưởng đến vật lý, biến quãng đời người nhiều chặng đường trăn trở. Mỗi mùa xuân là một thời kỷ niệm khó quên, cái thuở thiếu thời thơ ấu ấy là mùa xuân đẹp nhất. Mặc dầu sau nhiều năm sống lưu lạc nơi thị thành: Sài Gòn, Đà Lạt và nay ở xứ người, với mọi nơi ngày tết cũng đến. Nhưng tôi đâu có cảm thấy được cái gì thiêng liêng nhất, quí báu nhất cho bằng những ngày tết ở quê nhà. Cái ngày mà mọi người: “Không hẹn mà ai nấy cũng đều nghỉ tay, để chờ một ngày mai tươi sáng và tràn đầy hạnh phúc…” Một mùa xuân nữa lại về, cuộc đời ly hương lưu lạc nơi xứ người, làm sao không khỏi bùi ngùi, luyến tiếc những chuổi ngày đã qua, còn đâu ngày tết chứa chan nhiều tình cảm, tình nghĩa bà con hàng xóm láng giềng. Ngày tết đến thăm viếng nhau, để chúc tụng cầu mong cho năm mới phước lành và gặp được nhiều điều may mắn, dù cho những ngày thường không phải lòng nhau đến đâu đi nữa, cũng được bỏ qua vui vẻ cả làng.
Để gợi lại ngày tết quê hương, năm nay là năm Nhâm Thìn, tôi xin được ghi lại theo ký ức thời thơ ấu, một số tập tục ngày tết quê hương. Quê tôi xứ Quảng Nam, vùng Xuân Đài thuộc khu Gò Nổi. Đây là vùng nhà quê, nhưng phong cảnh không kém phần thanh lịch. Cư dân sống chen chúc sát cánh bên nhau, đại đa số sống bằng ngành nông nghiệp, ngoài ra còn làm thêm nhiều nghề phụ như: nuôi tằm, ươm tơ và nấu rượu lậu. Sau cây lụt 23 tháng 10, đường sá lầy lội đã dần dà khô ráo, người đi bộ có thể đi mà khỏi cần bấm mười đầu ngón chân, trong thời gian mưa lụt tầm tã, đường sá lầy lội, trơn trợt. Cây cối sau mùa đông đã bắt đầu thay lá, phun chồi nẫy lộc vươn lên, như để báo hiệu mùa xuân sắp đến. Đặc biệt khi thấy cây mai vàng bắt đầu rụng lá già, là ngày tết sắp đến. Ở vùng thôn quê nhà nào cũng thích trồng cho được cây mai, càng cựu bao nhiêu càng quý giá bấy nhiêu. Thông thường cây mai rụng lá, ướm nụ nở hoa đúng vào những ngày giáp tết một cách tự nhiên, theo sự tuần hoàn của tạo hóa. Tuy nhiên, người ta cũng có thể sút lá trước một tháng, để có bông nở rộ vào đúng ngày tết như mong muốn. Người chơi mai sành điệu là chọn cho được cành mai có thế, cành mai suông đuộc thì quá tầm thường. Hoa mai nở 5 cánh màu vàng thanh nhã, hương thơm ngào ngạt tỏa ra buổi sáng ban trong lành. Ngoài cây mai vàng, cây bông vạn thọ cũng góp phần tô điểm cho mùa xuân. Bông vạn thọ cũng trổ bông đúng vào dịp tết, loại bông nầy không cần kỷ thuật chăm sóc, cắt tỉa như các loài hoa khác như: cúc, thượt dượt, mẫu đơn… mà người thành thị thường chơi cũng lắm công phu. Thật là một loại hoa dễ trồng mà không kém vẽ đẹp, thông dụng nhất cho mọi nhà dân quê thôn dã.
Sau ngày cúng Ông Táo về trời ngày 23 tháng chạp, không khí ngày tết có phần nhộn nhịp hơn, chợ búa nhóm họp đông người bán, lắm kẻ mua. Hàng đường, hàng nếp, hàng đậu đã có nhiều người mua sắm bu quanh. Đắt hàng nhất là hàng bán củ cải, củ kiệu, củ hành được các bà, các cô nội tề lựa mua sắm tết đầu tiên. Thông thường mùa nầy trời hay mưa phùn (ở nhà quê gọi là mưa gieo cải) nên có khi các bà, các cô thất bại, không làm sao có được thẩu dưa món trắng giòn khi phơi được nắng, đem giầm với nước mắm Nam Ô thật ngon, pha vào đường cát trắng tinh. Ngày tết mà không có dưa món để ăn kèm với bánh tét, thịt heo mỡ là còn thiếu, chưa ưng cái bụng
Bà con còn rủ nhau qua chợ Trà Kiệu để mua cho thật nhiều củ sắn dây cùng khoai môn mịn, đem về nấu canh với xương heo, xương gà thật là ngon. Hoặc để dành, chiên với dầu phụng làm canh, ăn suốt cả tháng giêng, tháng hai, sau những ngày tết đã cạn kiệt ngân quỷ. Chuẩn bị ăn tết mà không có bánh tráng gạo là không được rồi, có nhà tự tráng lấy, có nhà đặt cho người ta tráng giúp cho. Nói chung, nhà nào không nhiều thì ít cũng đều có cả, món ăn đặc sản khó mà bỏ qua. Tôi không biết thứ bánh tráng xuất phát đầu tiên ở đâu? Có giả thuyết cho rằng, bánh tráng được thời Vua Quang Trung sáng chế ra để làm lương thực, trong cuộc thần tốc tiến quân ra đất bắc chống quân xâm lăng Tông Sĩ Nghị. Mỗi địa phương có phương cách làm khác nhau, thứ bánh tráng quê tôi có đặc điểm riêng của nó, bánh tráng loại dày khi tráng chỉ gia chút đường, chút nước mắm ngon và mè chà vỏ, không có nước dừa, tôm tép trong đó mà khi nướng lên, ăn xốp giòn thơm ngon chi lạ. Lại còn có bánh tráng mỏng, dùng để cuốn ram, cuốn bánh tráng thịt heo luộc với rau muống cộng, cải cay non… Cuốn bánh mà chấm vào nước mắm ớt tỏi, cắn từng miếng thật là khoái khẩu. Dân Quảng Nam như tôi, ăn bánh tráng cuốn thịt luộc là thường tình, một món hấp dẫn ngon tuyệt, không món nào sánh bằng.
Bánh tét lại càng không thể thiếu trong ba ngày tết, món ăn cổ truyền có từ ngàn xưa, nhà nhà đều chuẩn bị nếp, đậu từ những tháng trước tết. Nhà khá giả thì gói bánh tét với nhưn đậu xanh có thêm thịt heo mỡ quá ngon lành, trái lại phần đông nhà eo hẹp gói bánh tét chỉ có nếp mà thôi. Bánh tét không nhưn để dành được lâu ngày, ra giêng rộng ngày đem bánh tét chiên vàng, cuốn với lá cải cay non, chấm vào nước mắm dằm ớt tươi, ăn uống nước nửa buổi nơi đồng án cũng ấm bụng, tiện việc. Nồi bánh tét muốn được ngon, đầu tiên phải chọn loại nếp cái nguyên hạt, đậu xanh mốc vỏ bở bùi. Lá chuối phải là chuối sứ, đem phơi nắng cho vừa mềm lá. Cột lạt cũng nên lưu ý, hai nụt hai đầu thì cột cho thật chặt để tránh vô nước, còn các nụt ở giữa thì cột vừa phải để phòng cho nếp nở, chín mềm không bị sống. Phần còn lại khi nấu bánh cũng cần để ý, nồi nước lúc nào cũng đầy và sôi sùng sục không bao giờ gián đoạn. Ở nhà quê, nồi bánh tét nào cũng có chùm bánh ú, hay đòn bánh nhỏ xíu, là phần thưởng cho đám trẻ con thèm thuồng, trông đợi ngày tết từ lâu.
Bánh nổ cũng là thổ sản của nhà quê. Nếp vỏ đem rang cho nổ tung, sàng sẫy lấy toàn hạt nổ, đem giã thành hạt nhỏ, trộn đều với nước đường thắn có pha gừng tươi giã nhuyển. Đem in thành bánh, to nhỏ tùy theo từng loại khuôn, sấy lửa cho thật khô giòn, cất vào thùng thiếc, đợi ngày tết đến đem ra ăn cùng đải khách đến thăm nhà đầu năm.
Bánh tổ còn được gọi bánh ổ. Loại bánh nầy lấy nếp ngâm nước cho mềm, vớt ra để ráo, bỏ vào cối đá rồi hai người giã chày đôi thình thịch cho thành bột và đem rây cho thật mịn. Trộn bột nếp vào nước đường có pha gừng tươi, lấy vừa trùng không nhão, không đặc quánh, đổ vào rọ có lót lá chuối bên trong, trên lớp mặt rải lớp mè chà vỏ trông cho có duyên. Nhưng ít khi được ăn vì hay bị mốc. Đem hấp cách thủy cho thật chín mới không bị nứt, dẽo và ngon. Thời gian hấp chín canh chừng tàn một cây hương loại dài. Bánh tổ ít được phổ thông, vì ngoài công phu còn có mê tín cho rằng: nếu làm bánh tổ thì phải làm thường xuyên, năm nào cũng phải làm, hể không làm được hệ lắm: “mạt”. Có nghĩa đã lâm vào cảnh nghèo rồi, lấy đâu ra của, tiền bạc mà bánh với trái? Bánh tổ chiên, ăn có mùi vị vừa béo, vừa dẻo, vừa giòn hay hay.
Bây giờ lại nói đến loại thịt, nhà nào cũng có vài ba con gà mái tơ, gà trống non nuôi để dành ăn tết. Có nhà còn nuôi gà trống thiến, thời gian trên một năm thịt mới ngon. Thịt vịt ít ai dùng ăn tết, vì tin hay gặp xui xẻo. Ngoài thịt gà, thịt vịt, thịt heo là loại thịt không thể thiếu trong ba ngày tết cổ truyền. Tiếng heo kêu eng éc, eng éc bị bắt ra khỏi chuồng để làm thịt, chiều ngày 30 tết vang dội từ nhà nầy sang nhà khác là một trạng thái thấy nôn nao và vui nhộn chi lạ. Khi còn nhỏ, tôi thích nhất coi người ta làm thịt heo, coi bắt say mê. Con heo bị bắt từ chuồng ra, đem đặt nằm trên cái ghế ngựa dài, người thì cầm chân, người thì lấy huyết (thọc huyết) rồi xối nước sôi để cạo lông. Con heo trắng bốc được bỏ nằm gọn trong cái nong phơi lúa có lót những tàu lá chuối. Đầu tiên cái đầu được cắt ra, kèm thêm đủ bốn móng chân, cái đuôi và một ít lòng ngũ tạng, trí phần làm lễ vật cúng đất đai, thần linh. Phần còn lại, nào xương, nào thịt mỗi thứ là mỗi món ăn, do tài biến chế khéo léo của các bà nhà bếp nội trợ trong nhà. Ở xóm, trong làng, nhà nào khá giả thì làm một heo, nhưng phần đông hùn lại chung nhau hạ một heo. Phần thịt hùn, chia năm xẻ bảy, thành ra nát vụn chả có ngon lành chi cả. Chia thịt heo ăn tết khỏi cần trả tiền mặt, mà hẹn đến ngày mùa, đong lúa trả nợ sòng phẳng cũng được ưng thuận vui vẻ với nhau.
Trong các buổi chợ tết, tấp nập nhất là các buổi chợ ngày 29 và 30 tết, buổi chợ cuối cùng chỉ đông đến trưa ngày 30 mà thôi. Chiều 30 là buổi chiều chuẩn bị để cúng rước ông bà, ông táo. Chợ vắng tanh, người ta mới nói: tan hoang như chợ chiều 30 là như thế. Năm mới, cái gì cũng phải mới từ lối ăn mặc, trang hoàng nhà cửa cho sáng sủa thêm hơn, đường sá cũng được quét dọn sạch sẽ, đắp bồi chỗ hục hiu, lởm chởm vì bị nước lụt đào xoáy. Bàn thờ ông bà lau chùi trang trí trở lại, bộ lư đồng hay cặp chân đèn bằng gỗ đều được đem ra cọ rửa, đánh bóng rất công phu. Nồi hương cũng được thay cát mới, lấy ở bãi cát thật sạch tận bờ sông. Thiết trí bàn thờ theo nghi thức: “Đông bình – Tây quả”. Căn cứ người nhìn vào bàn thờ, bên tay mặt là đông, tay trái là tây. Bình bông ngày tết phải cắm cho được cành mai sum sê nhiều bông nụ, cùng lắm mới dùng đến bông vạn thọ. Quả tử thường là vài nải chuối mốc xanh, om sát trái bòng tròn trịa còn nguyên cành lá xanh tươi. Khi cúng lễ vật như đầu heo, con gà luộc ông bà ta còn dạy: “Cô bác xây ra – ông bà xây vô”. Vì cúng đất đai, bàn thờ đặt bên ngoài nhìn vào, bàn thờ ông bà thì đặt bên trong nhìn ra, cho nên khi nào lạy cũng thuận theo chiều lễ vật đặt để. Ngoài ra trên bàn thờ có nhà cũng dùng đồ mã: giấy tiền, vàng bạc, áo quần bằng giấy… để thờ trong 3 ngày tết. Bàn thờ lúc nào cũng chong ngọn đèn dầu và thắp hương thường xuyên.
Khởi đi từ 3 giờ chiều ngày 30 tết, nhà nhà đều lo mâm cơm thịnh soạn để cúng đất đai, đón rước ông táo, ông bà về nhà. Hương trầm thơm ngát, rộn rã tiếng pháo bắt đầu nổ vang. Buổi chiều tối, con cháu trong nhà quây quần cùng nhau ăn bửa cơm chiều cuối năm, thật là đầm ấm, vui vẻ. Cơm nước xong, những người rảnh trong gia đình bày trò chơi: đánh bài trùng, cát tê, xì lác chờ đón giao thừa. Đúng 12 giờ đêm làm lễ cúng giao thừa, (hành khiến) lễ vật có thể là bánh khô, hoa quả, hương trầm, trà nước hay có thể là sinh vật con gà trống tơ có cặp chân vàng, nếu không cử sát sinh. Lễ cúng không thể thiếu dây pháo nổ giòn, để xem thời vận đón mừng năm mới, mong được nhiều điều may mắn và làm ăn phát đạt… Xong đâu vào đó, mọi người trong nhà đều đi ngủ, cho đến trời sáng trắng mới thức dậy.
Sáng mồng một, đàn ông xuất hành đi đến nhà thờ tộc, đình chùa để dự lễ tế đầu năm, cầu an, cầu phước lộc cho năm mới. Đàn bà ở nhà chuẩn bị làm cổ cúng ông bà, bày soạn bánh trái sẵn sàng mời khách viếng thăm nhà đầu năm. Trẻ con diện áo quần mới, dép guốc sạch sẽ chạy đi chơi khắp xóm làng, thỉnh thoảng không quên chạy về nhà ăn vội vàng bánh tét trừ cơm để còn đi chơi nữa. Trò chơi cũng không thể thiếu trong 3 ngày tết, một tập tục ở địa phương mà dân làng ưa thích và duy trì tổ chức hằng năm để vui xuân:
Bài chòi: địa điểm chơi thường là nơi trường học hoặc cất chòi bằng tre, lợp tranh che mưa nắng tạm thời, cũng vì thế mà người ta gọi là bài chòi, có nơi còn gọi là bài ghế hay bài tới cũng đều đúng cả. Tựu trung người ta dùng 2 bộ bài để chơi, mỗi bộ bài có 32 con, vẽ hình con vật hay đồ vật như: con ba gà, tiền sáu, bánh ba, bạch huê, thái tử, nhì nghèo, nọc thượt… Người ta dùng các con bài của bộ bài thứ nhất, dán hết lên thẻ bài bằng tre như chiếc đủa bếp, tất cả thẻ bài được bỏ vào ống tre và treo trên cao, người hô bài không nhìn thấy con gì khi bốc ra. Người đó phải biết cách hát hò lô tô từng câu thích hợp, để dẫn đưa con bài vừa mới rút ra đến tay người chờ một cách hào hứng, vui vẻ. Người chơi, cầm trên tay một tấm bài có dán 4 con bài của bộ bài thứ hai, tất cả có 8 tấm bài như thế. Khi nghe hô có con bài trùng tên với con bài mình đương giữ thì hô “đây” và nhận giữ lấy, mỗi tấm bài có được 3 con rồi gọi là “chờ”. Đến khi nào, có một người 4 con bài của mình đều trùng hết, thì hô thật to: “TỚI”. Ngay lập tức có người cầm cờ ghi số theo thứ tự chạy tới trao cho, phụ họa theo đó tiếng trống đánh dồn dập chào mừng, người chơi bài chòi được một cờ coi như huề vốn, cứ thế mà chơi cho hết số cờ còn lại, ai hên thì được nhiều cờ còn không thì chờ chơi hiệp kế tiếp. Mỗi lần chơi thường bán ra 10 cờ, giá cả mỗi cờ tùy theo từng nơi có khác nhau, nhưng quy luật chung đều chơi tới cờ thứ 8 là chấm dứt, 2 cờ còn lại dùng vào chi phí linh tinh, cho việc tổ chức vui xuân.
Thả vịt – ví bắt: Trước đình làng có cái bàu, sau mùa mưa lụt chứa đầy nước, có độ sâu trên dưới 10 thước. Từ sáng sớm chung quanh bờ bàu, trai gái trong làng tụ tập đông đủ tham dự trò chơi thi tài bơi lội một cách hào hứng, các cô chờ xem anh chàng nào giỏi nhất mà bấy lâu nay chỉ nghe tiếng, chứ chưa thấy, “thấy mới tin”. Thế là một bầy vịt độ 5-10 con được mở lồng cho chúng được tự do bơi lội, rúc tỉa tìm mồi một cách tự nhiên trong bàu nước rộng mênh mông. Những chàng trai tham dự đứng sắp một hàng ngang, sẵn sàng nghe hiệu lệnh. Ba hồi trống vừa chấm dứt, báo hiệu cuộc thi bắt đầu, tất cả nhanh chân lẹ cẳng nhún phóng xuống bàu rượt bắt bầy vịt đương bơi lội bên kia bờ, thật xa. Người rượt theo vịt mệt nghỉ, vịt cút lặn tài tình tạo nên một cảnh tượng huyên náo, hào hứng quá chừng. Trên bờ vang dội tiếng hò reo cổ vỏ càng lúc càng hăng say, cho đến khi bầy vịt tả tơi hoa lá cành, rơi vào tay các chàng trai cũng thấm mệt.
Đua ghe: Ở làng tôi còn có cái bàu phía sau làng, tên gọi là bàu Liêm. Bàu nầy mực nước không sâu cho lắm, nhưng có chiều dài quanh co trông có vẻ nên thơ, hữu tình. Dân trong làng lấy nơi đây để tổ chức cuộc đua ghe vui xuân. Ghe đua chỉ là loại ghe nan, đan bằng gốc tre già trắt dầu rái mua ở Bến Dầu, thuộc quận Đức Dục. Loại ghe thường ngày dùng để vớt củi lụt, cắt cỏ cho trâu bò trong những ngày nước lụt, nhà nông nào cũng có sẵn trong nhà. Loại ghe nan nầy không giống như những chiếc ghe đua chuyên nghiệp, thường thấy bơi đua trên dòng sông Thu Bồn, được đóng bằng gỗ, chiều dài có khi trên 15 thước. Thường thường cuộc đua ghe có từ 8 đến 10 chiếc, mỗi ghe chọn ra 8 chàng trai khỏe mạnh, ngoại trừ 2 người cầm mũi và lái đứng tuổi và nhiều kinh nghiệm. Hai đầu bàu có cắm 2 cây tiêu quẹo vòng, số vòng được ban tổ chức định trước, ở khoảng giữa là nơi xuất phát cũng là đích đến. Nơi đây trang hoàng nhiều lá phướn, cờ xí đuôi nheo cổ động vui xuân trong tinh thần đoàn kết, nghĩa xóm tình làng. Tổ chức đua ghe là dịp hiếm có, nên mọi người tham dự đều nhiệt tình và hào hứng theo tiếng trống đánh dồn dập, thúc giục nao nao trong lòng. Khi cuộc đua đã gần đến mức, các mái chèo đua nhau rẽ nước, cố sức vượt lên, vượt lên để quẹo tiêu càng nhanh càng hăng hái bấy nhiêu nhờ vào tiếng hò reo cổ vỏ. Trong đó có cả các cô thôn nữ cũng không kém phần hăng say, lắm khi vì quá hào hứng quên mất đi cử chỉ “hẫy lên”, cũng giống như những người trong cuộc. Các chàng trai cổ động giờ đây không còn theo dỏi ghe đua, mà nhìn về phía các cô một cách say mê, cười rúc rích với nhau thỏa thích. Phát hiện ra được, các cô thẹn thùng, bỏ chạy vội vã hun hút vào sâu sau lũy tre làng…
Đá gà: cũng là một trong các thú vui chơi ngày xuân, nhà ông Chánh Tráng ở làng Bến Đền cũng như cha con ông Đàn Quí ở Bảo An là hai nơi thường chơi đá gà chuyên nghiệp, lập ra trường đá đàng hoàng. Các tay chủ gà cũng như người tham dự cá độ, đều là những người ham thích say mê, mà trong đó không sao tránh khỏi máu cờ bạc. Những con gà đá được lựa chọn mua tận ở Qui Nhơn, Bình Định mới đúng nòi, khi vào trận đến chết mới chịu thôi. Từng chú gà được nhốt riêng rẻ, nuôi dưỡng săn sóc hết sức công phu, nhiều khi phải thức đêm cho gà ăn, thức ăn hoàn toàn hạt thóc ròng. Bọn con nít cũng bắt chước chơi đá gà như người lớn. Nhưng chọn ra con gà trống kiến nhỏ con, thường nuôi trong vườn. Đá gà ta, gà trống kiến chọi với nhau trông cũng đẹp mắt và vui nhộn, hào hứng lắm chứ, vì cặp gà quầng thảo với nhau rất dẻo dai, bền sức không khác gà nòi là mấy, sau khi dự trận đem về làm thịt, luộc xé trộn muối tiêu, lá chanh, rau răm còn ngon cháng.
Hát bội: thời bấy giờ đâu có ca kịch, tân nhạc, hát bội là môn giải trí được giới bình dân, thôn quê hâm mộ nhất. Sau tết mới tổ chức vui chơi: “tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè…”. Làm lễ hạ cây nêu xong, người ta bắt đầu tổ chức hát bội, vùng Gò Nổi có hai nơi thường hay tổ chức lập ra trường hát, một trường ở làng Phú Bông bên dưới đường xe lửa, một trường ở làng Bảo An, tại cồn cây da. Xuất hát đầu tiên là phiên “HÁT ĐỔ” cầu trời cho mưa thuận, gió hòa, được mùa… hát cống hiến cho dân chúng coi, không có bán vé. Trường hát là một cái trại làm bằng tre thật lớn, lợp kéo trài tranh rạ tạm thời. Sân khấu thì có lót ván, nhưng cũng không mấy bằng phẳng. Chung quanh rạp là những dãy ghế hạng 3, làm bằng hai cây tre cột liền với nhau và xếp đặt từ thấp lên cao. Ở giữa rạp là những chiếc ghế dựa gỗ dài, dành cho hạng nhất bên trên và hạng nhì về phía đằng sau. Hàng rào bảo vệ là dãy rào gai tre, che thêm nhiều tấm cót. Thời buổi nầy chưa có đèn điện, chỉ dùng đến đèn mân xông cũng sang lắm rồi, cũng không có máy khuếch đại âm thanh, nên kép, đàu hát phải hát thật to, nổi gân cổ mà người nghe cũng chưa vừa lòng. Nhất là đoạn gay cấn, bi lụy thì đành chịu đi thôi, thêm vào đó tiếng trống chầu nhiều khi còn lấn át câu hát không khỏi bực mình. Người được mời đánh trống chầu là một vinh dự lớn, có chức sắc, máu mặt trong vùng, mới dám đảm nhận, phải thông thạo tuồng tích đánh đúng vào chỗ dứt câu, giúp cho đàu kép hát được hay hơn, hỷ nộ ái ố đều thích hợp… Ngược lại, nhiều khi đánh tiếng trống chầu không đúng lúc, làm cho đàu kép khựng lại, như vọt vào miệng người ta, khi đó tha hồ bị chửi bới, hò hắc, la ó vang trời. Thành thử thế gian mới có câu răn đời: “Ở đời có bốn cái ngu, Làm mai lãnh nợ gác cu cầm chầu”. Hát bội là môn giải trí phổ thông nhất ở thôn quê, từ người già đến trẻ đều thích thú. Đây cũng là một cơ hội hiếm có, tạo dịp thuận lợi cho giới trẻ giao thiệp rộng rãi, tìm hiểu nhau có khi nên vợ, nên chồng một cách chính đáng. Nhưng đôi khi cũng có thể xãy ra những điều không hay, bởi vì vùng nhà quê có lắm ruộng mía trùng trùng, điệp điệp, lợi dụng cảnh thiên nhiên hữu tình, các cô cậu bắt chước theo cụ Nguyễn Công Trứ ngày xưa, thì thật nguy hại khôn lường vô cùng: “Giang sơn một gánh giữa đồng. Thuyền quyên ứ hự anh hùng nhớ chăng”.
Thuở còn nhỏ, tôi thường được cha tôi cho đi theo coi hát, nhưng cái thú của tôi đâu có phải được vào rạp để ngồi nghe những câu hát: như ta đây là… Trương Phi (làm rớt bộ râu đổi thành Trương Phì, em của Trương Phi…) hoặc là: phu quân ơi!!! Chậm chậm cho em theo… mà điều tôi thích nhất là được ăn khuya, được ăn món thịt bò tái nóng hổi vừa mới thui buổi chiều. Thực khách ăn thịt bò tái thì thấy rất ư đơn giản, chỉ cần kêu người bán thịt, xắt cho mình một dĩa ngon nhất có nhiều da, thêm vào đó kèm theo dĩa rau sống chuối chát khế, chén mắm gừng ớt tỏi và vài ba cái bánh tráng nướng là đủ một chầu ngon miệng. Nhưng được ngon đâu phải dễ mà có, từ khi con bò bê còn nguyên vẹn, cho đến khi thành dĩa thịt thật mềm, nóng hổi, thơm ngon hao tốn rất nhiều công sức làm nên. Thịt bò ở quê mới thấy đúng tên gọi; “bò thui”. Con bò bê vừa đúng cở, đem lấy huyết làm thịt, mổ bụng lấy bộ đồ lòng ra, rồi người ta nhận thay vào đó nào lá chanh, lá sả… đầy cứng ngắt và may lại bằng dây thép cho thật chắt. Bốn cẳng bò được cột túm lại, xỏ qua bằng đòn gốc tre và đặt lên dàn thui. Người ta dùng bả mía hay cây sậy, bó thành cây đuốc dùng để châm lửa thui bò, ngọn lửa ở đuốc quạt tạt vào thân bò nhờ cái quạt mo cau. Người ta thui đi, thui lại cho đến khi nào thịt bò chín thấu mới thôi. Sau cùng, người ta dội nước lạnh vào da bò để cạo cho thật hết lớp cháy đen bên ngoài, để lộ lớp da vàng hùm thấy bắt thèm. Thui xong, con bò bê được rã thành 4 đùi, đem treo nơi sườn nhà và chờ khách đến, xẽo ra từng miếng làm vừa lòng tất cả mọi người. Ngày nay, người ta không còn thui bò bê như cách cổ xưa, người ta cạo sạch bóng da bò trước, sau đó đem nướng trên lò lửa than hừng hực, với cách nầy không còn gọi là “bò thui”, mất đi hương vị đặc biệt nguyên thủy. Nay ở xứ người cũng có thịt bò thui, mà chắc rằng không làm sao sánh kịp với loại bò thui quê mình, một khi đã biến đổi cách thức và còn cất giữ nơi tủ lạnh… Biết đến bao giờ mới được ăn trở lại lát thịt bò thui thơm ngon, nóng hổi chính hiệu của Quê Hương, không lai căn nhỉ!!! Thật quá giản dị – Nhưng khó tìm đâu ra.-
Đoàn Ngọc Nam
Xuân Nhâm Thìn 2012, California
Bài này đã được đăng trong
Tâm Tình K1. Đánh dấu
đường dẫn tĩnh.
Bạn phải đăng nhập để bình luận.